Nguyễn Danh Tiên - Trần Trung Kiên
Cách đây 45 năm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng oanh liệt của dân tộc ta, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Có được thắng lợi vĩ đại ấy, dân tộc ta đã trải qua những chặng đường đấu tranh đầy hy sinh gian khổ, đã kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, bất khuất của con người và văn hóa Việt Nam; đồng thời, thắng lợi đó còn là kết tinh của khát vọng độc lập, tự do và thống nhất non sông của cả một dân tộc anh hùng.
Khát vọng độc lập, tự do và thống nhất non sông đã thấm nhuần trong tư tưởng mỗi con người Việt Nam, được nuôi dưỡng và truyền lại qua bao thế hệ. Mỗi khi đất nước bị xâm lăng, ý chí độc lập, tự do lại được nhân lên gấp bội, như mạch ngầm tạo nên sức mạnh đưa đất nước, dân tộc vượt qua những thử thách ngặt nghèo trong những chặng đường đấu tranh thoát khỏi kiếp đời nô lệ.
Chính tinh thần đoàn kết dân tộc ấy đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945). Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự, đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"(1).
Thực hiện khát vọng đó, với tinh thần "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954), lập lại hòa bình ở miền Bắc Việt Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau khi thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam, thế chân Pháp, đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự để ngăn chặn phong trào cộng sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ ở Đông Dương và Đông Nam Á. Nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với đặc điểm lớn và bao trùm nhất là đất nước bị chia làm hai miền Bắc - Nam. Nhưng Việt Nam là một cơ thể thống nhất, từ đất liền ra hải đảo, không thể tách rời. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn. Song! chân lý đó không bao giờ thay đổi" và "Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam", nên "31 triệu đồng bào hai miền Nam - Bắc là 31 triệu chiến sĩ diệt Mỹ".
Thực hiện quyết tâm sắt đá đó, Đảng đã lãnh đạo quân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhằm mục đích cuối cùng là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vượt qua những khó khăn, thách thức trong những năm 1954-1959, với đường lối cách mạng đúng đắn do Hội nghị lần thứ 15 khoá II (5/1959) Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960) đề ra, cách mạng miền Nam đã chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Phong trào Đồng khởi cuối 1959 đầu 1960 thật sự là một cao trào cách mạng và là bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, giáng một đòn nặng nề vào bộ máy thống trị của Mỹ - Diệm, làm phá sản mô hình, hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Từ năm 1961, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt'', tăng cường viện trợ và cố vấn Mỹ, xây dựng ngụy quân, ngụy quyền mạnh, dồn dân lập "Ấp chiến lược''. Những cuộc khởi nghĩa từng phần từ phong trào Đồng khởi đã chuyển thành chiến tranh cách mạng, nhất là sau chiến thắng Ấp Bắc (2/1/1963). Tiếp đó, kết hợp hình thức đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, tiến hành ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, quân và dân miền Nam tập trung đánh bại "quốc sách" ấp chiến lược, làm phá sản chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Đứng trước khả năng đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân vào thực hiện chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, ngày 27 tháng 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, gồm 300 đại biểu đại diện cho các bậc lão thành cách mạng, các ngành, các giới, các đoàn thể, trí thức tiến bộ, nhân sĩ yêu nước và anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc. Đây thực sự là "Hội nghị Diên Hồng" trong thời đại Hồ Chí Minh để thống nhất ý chí, quyết tâm đoàn kết toàn dân tộc cùng chiến đấu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà.
Tiếp đó, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi, khẳng định mạnh mẽ ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam: "… Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!"(2).
Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quyết tâm thực hiện khát vọng cháy bỏng thống nhất non sông, quân dân miền Bắc đã kết thành một khối, đẩy mạnh các phong trào thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Đặc biệt, các phong trào, như: "Thanh niên ba sẵn sàng", "Phụ nữ ba đảm đang", "Tay cày, tay súng", "Tay búa, tay súng" và các khẩu hiệu hành động: "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", v.v... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua vừa lao động sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ; bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc, đồng thời liên tục chi viện ngày càng cao sức người, sức của cho chiến trường miền Nam.
Trong khi đó, trên chiến trường miền Nam, kiên định với đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và hưởng ứng mạnh mẽ Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta vừa đẩy mạnh tiến công địch liên tục, rộng khắp với quy mô ngày càng lớn trên cả phương diện quân sự, chính trị và binh vận; vừa đánh địch, vừa kết hợp lập thế trận và chuẩn bị tiềm lực mọi mặt; xây dựng và mở rộng căn cứ, mở rộng vùng giải phóng để chuẩn bị trực tiếp cho những đòn tiến công quyết định. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) là sự tiếp nối tinh thần và ý chí sắt đá quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của kẻ thù, giáng một đòn quyết định vào chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của chúng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam và làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của kẻ thù.
Thất bại trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ ngoan cố kéo dài chiến tranh bằng chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh'' cực kỳ tàn ác và thâm độc. Vượt qua những khó khăn trong những năm 1969, 1970, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Nam ra sức phát triển lực lượng, miền Bắc tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam.
Đầu năm 1971, phối hợp với chiến trường Lào và Campuchia, ta giành thắng lợi lớn về quân sự nhất là việc đánh tan cuộc hành quân Lam Sơn 719; tiếp đó, ta mở cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972. Trước nguy cơ thất bại, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc từ ngày 6 tháng 4 năm 1972. Trước âm mưu và hành động xâm lược của kẻ thù, ngày 3/11/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước:
"Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt. Chúng nói "hòa bình", "thương lượng" nhưng vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng…
Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi"(3).
Nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân miền Bắc đã dũng cảm chiến đấu đánh bại các đợt tấn công bằng không quân của đế quốc Mỹ, đặc biệt, trong 12 ngày đêm chiến đấu anh dũng, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược đường không quy mô lớn chưa từng có, chủ yếu bằng B.52 của Mỹ, làm nên chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 chiếc B.52, tiêu diệt và bắt sống hàng trăm giặc lái Mỹ(4). Thắng lợi đó, đã đập tan cố gắng cuối cùng của tập đoàn cầm quyền Mỹ hòng sử dụng sức mạnh hủy diệt để đàm phán trên thế mạnh với ta. Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" là một trong những chiến thắng mang tầm vóc lịch sử ở thế kỷ XX, viết tiếp những trang sử vàng chiến công chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm, giữ nước của dân tộc. Thắng lợi trong trận "Điện Biên Phủ trên không'' của quân và dân ta đã buộc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Pari (27/1/1973). Ngày 29 tháng 3 năm 1973, quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam làm lễ cuốn cờ, chấm dứt sự có mặt của quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam.
Sau Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ vẫn tăng cường viện trợ về quân sự và kinh tế cho chính quyền Sài Gòn, tiếp tục thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ trợ giúp đã vi phạm những điều khoản của Hiệp định, lấn chiếm và tiếp tục mở rộng chiến tranh. Tình hình đó cho thấy một thực tế là, con đường phát triển của cách mạng miền Nam vẫn phải tiếp tục tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại chính quyền tay sai của Mỹ để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III - năm 1973) được triệu tập để quyết định những nhiệm vụ của cách mạng miền Nam.
Thực hiện nhiệm vụ do Hội nghị 21 của Trung ương Đảng đề ra, cả nước dốc sức chuẩn bị lực lượng về mọi mặt. Trong nửa cuối năm 1973 và cả năm 1974, cùng với gấp rút củng cố và phát triển lực lượng tại chỗ trên chiến trường, Đảng Lao động Việt Nam chỉ đạo nhiệm vụ tăng cường chi viện của hậu phương miền Bắc. Theo đó, mức tuyển quân và huy động của cải vật chất ở miền Bắc đã tăng nhiều lần so với các thời kỳ trước. Hội đồng chi viện tiền tuyến được thành lập. Điều đó nói lên quyết tâm chiến lược của Đảng và nhân dân ta. Định hướng lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng là phải nắm vững tình hình, nắm vững thời cơ, chỉ đạo kiên quyết và khôn khéo. Đến cuối năm 1974, việc chuẩn bị về mọi mặt đã tạo nên sự chuyển biến căn bản trong thế và lực của ta trên chiến trường.
Trước bối cảnh tình hình chuyển biến mau lẹ, Bộ Chính trị hạ quyết tâm động viên sức mạnh của quân dân cả nước hoàn thành giải phóng miền Nam trong hai năm 1975, 1976. Tuy nhiên, sau chiến thắng Phước Long (1/1975), thế và lực của ta tăng lên, khả năng Mỹ đưa quân trở lại là rất khó xảy ra, do đó, Bộ Chính trị đã đi đến quyết định mở cuộc tiến công chiến lược để hoàn thành giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975, quân ta tiến công Buôn Ma Thuột. Chiến thắng Buôn Ma Thuột và Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi chẳng những đã tăng cường thế và lực của ta mà còn xuất hiện thời cơ giải phóng miền Nam trong thời gian ngắn nhất. Ngày 18 tháng 3 năm 1975, một ngày sau khi địch rút chạy hoàn toàn khỏi Bắc Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã họp và quyết định chớp thời cơ giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.
Phát huy thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Ngày 26 tháng 3 năm 1975, giải phóng Huế; ngày 29 tháng 3 năm 1975, giải phóng Đà Nẵng. Tiếp tục truy quét địch dọc các tỉnh của Nam Trung bộ, ngày 24 tháng 4 năm 1975, ta phá tan phòng tuyến Xuân Lộc của địch, mở cánh cửa hướng Đông tiến vào Sài Gòn. Cùng ngày 24 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị quyết định Chiến dịch giải phóng Sài Gòn, mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. 17 giờ ngày 26 tháng 4 năm l975, Chiến dịch Hồ Chí Minh, đỉnh cao nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu và toàn thắng vào lúc 11h30 ngày 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, tự lực tự cường, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là sức mạnh vĩ đại của ý chí và trí tuệ Việt Nam, của bản lĩnh và nhân cách Việt Nam, của nền văn hiến Việt Nam.
Hơn nữa, Đại thắng mùa Xuân 1975 còn là sự hội tụ sức mạnh của quân và dân cả nước, sức mạnh của toàn dân tộc. Đó là sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam thần kỳ với sự hy sinh to lớn của đồng bào chiến sĩ miền Nam trên tiền tuyến lớn và sự chi viện hết lòng của hậu phương lớn miền Bắc; là thắng lợi của khát vọng độc lập dân tộc, tự do và thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam. Về vấn đề này, Đại tướng Văn Tiến Dũng khẳng định với các nhà báo và học giả phương Tây rằng: "Một lần nữa tôi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay"�.
Tuy nhiên hiện nay, trên một số phương tiện thông tin, ấn phẩm, trang website,… đây đó xuất hiện những luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận tầm vóc chiến thắng vĩ đại đó của nhân dân Việt Nam. Họ tập trung xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; hạ thấp ý nghĩa của chiến thắng, cho rằng "Đại thắng mùa Xuân 1975" không thể gọi là một chiến thắng vẻ vang, mà chỉ là một kết quả tất yếu khi Hoa Kỳ thay đổi chính sách đối ngoại, rút quân, cắt viện trợ, bỏ rơi chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa, v.v...
Thực tiễn lịch sử đã bác bỏ những luận điệu sai trái trên. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc; kết thúc cuộc chiến đấu 30 năm giải phóng, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta; mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh chính nghĩa, nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thống nhất nước nhà. Thắng lợi vĩ đại là kết quả của cả một quá trình đấu tranh cách mạng anh dũng, kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam với bao tổn thất, hy sinh, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và Lãnh tụ Hồ Chí Minh; là thắng lợi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; thắng lợi của sự kiên trì đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân và của nghệ thuật quân sự tài tình biết thắng từng bước, đánh cho "Mỹ cút", tiến tới đánh cho "ngụy nhào". Trong cuộc chiến tranh này, chiến thắng đã thuộc về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, quân đội và nhân dân Việt Nam anh hùng; thắng lợi của bạn bè, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đúng như Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc"(5).
* *
45 năm đã trôi qua, nhưng những bài học kinh nghiệm của Đại thắng mùa Xuân 1975 rất cần được đúc kết, vận dụng trong giai đoạn cách mạng mới, trong đó, bài học về phát huy giá trị của khát vọng độc lập, tự do và thống nhất non sông vẫn mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội"(6), sánh vai với các cường quốc năm châu như lúc sinh thời Bác Hồ hằng mong đợi.
Chú thích
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.1-2.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, Tập 15, tr. 131.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, Tập 15, tr. 512.
4. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tập VII - Thắng lợi quyết định năm 1972, Nxb QĐND, Hà Nội, 2013, tr.355.
5. Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch: Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.48.
6. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976). Dẫn theo Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37 (1976), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.471.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.62.
Nguyễn Quốc Hồng
Năm 2020, năm có nhiều sự kiện chính trị quan trọng: Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2020); Kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2020)… Đặc biệt năm 2020 là năm diễn ra đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhân kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Bác và trước thềm Đại hội Đảng bộ tỉnh, chúng ta cùng nhìn lại một cách tổng quát chặng đường 50 năm Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà thực hiện những điều căn dặn của Bác.
Ngày 21 tháng 7 năm 1969, Bác Hồ kính yêu đã gửi cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh bức thư với sự quan tâm sâu sắc. 50 năm trôi qua, tình cảm và những điều căn dặn của Bác đối với Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà vẫn còn nguyên giá trị và trở thành di sản đi cùng năm tháng, điểm tựa sức mạnh tinh thần để Đảng bộ và nhân dân Nghệ An vượt qua những khó khăn thách thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng quê hương.
Những điều Bác căn dặn trong thư gửi cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh:
Mở đầu bức thư Bác biểu dương những chiến công của quân và dân tỉnh nhà trong cuộc chiến đấu anh dũng chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Bác khen ngợi những điển hình tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp; Đồng thời Bác cũng nhận thấy: Cán bộ các ngành trong tỉnh bước đầu sửa chữa tệ quan liêu, mệnh lệnh, cố gắng đi sát nhân dân để tổ chức vận động nhân dân thực hiện các chính sách của Đảng và nhà nước.
Tiếp đến Bác viết: Sắp tới phải làm gì?
1. Tích cực thực hiện dân chủ với nhân dân hơn nữa. Trong hợp tác xã nông nghiệp, mọi việc sản xuất, phân phối, quản lý kinh tế, bầu cử các cơ quan phụ trách đều phải để cho nhân dân bàn bạc kỹ và tự quyết định một cách thật sự dân chủ… Ở các nhà máy, các công trường, nông trường, lâm trường, các cửa hàng, các cơ quan cũng cần phát động cán bộ, công nhân bàn bạc dân chủ việc cải tiến quản lý kinh tế, cải tiến lề lối làm việc của đơn vị mình.
2. Khôi phục và phát triển kinh tế là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết, các đồng chí phải cố gắng làm cho tốt. Bác chỉ rõ phát triển kinh tế phải toàn diện từ nông nghiệp, lâm nghiệp đến công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, phải tạo ra nhiều hàng hóa để phục vụ nhân dân.
3. Hết lòng chăm lo đời sống nhân dân. Bác căn dặn: Phải ra sức phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm, lại phải phân phối cho công bằng, hợp lý, từng bước cải thiện việc ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức khỏe và giải trí cho nhân dân. Đặc biệt chú trọng các vùng bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ già yếu và gia đình liệt sỹ, thương binh, bộ đội, thanh niên xung phong,…
4. Một điều phải luôn luôn nhớ là:… Đảng bộ và nhân dân Nghệ An, cố gắng góp nhiều công sức hơn nữa để cùng quân và dân cả nước đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.
Nghệ An là một tỉnh rộng lớn, có tài nguyên phong phú, có nhân dân cần cù lao động và rất cách mạng. Rất mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc.
Cuối thư Bác viết: Nhờ Tỉnh ủy chuyển lời của tôi chúc toàn thể đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, đảng viên, đoàn viên trong tỉnh mạnh khỏe và cố gắng tiến bộ,…
Đảng bộ và nhân dân luôn tâm niệm bức thư cuối cùng của Bác gửi cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trước lúc đi xa là bản di chúc thiêng liêng mà Người dành cho "Quê hương nghĩa nặng tình cao". Cũng từ tâm niệm ấy mà 50 năm qua các thế hệ lãnh đạo tỉnh đã trăn trở tìm hướng đi tốt nhất để thực hiện điều mong muốn của Bác.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân Nghệ An đã đóng góp nhiều sức người và của cải cho tiền tuyến "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Để đảm bảo mạch máu giao thông, hàng ngàn người đã vượt qua những thử thách ác liệt chấp nhận hi sinh, mất mát nêu cao khẩu hiệu "gãy cầu như gãy xương, tắc đường như tắc ruột", "thà tim ngừng đập quyết không để phà tắc" vận chuyển hàng triệu tấn hàng vượt qua nhiều tọa độ lửa chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, quân và dân Nghệ An đã vượt qua gian khổ, chiến đấu kiên cường bắn rơi 553 máy bay Mỹ, trong đó có 12 chiếc B52; bắn chìm 36 tàu chiến Mỹ(1).
Kết thúc cuộc chiến tranh, Nghệ An đã đóng góp cho các chiến trường 160.315 bộ đội; 11.585 thanh niên xung phong; 24.450 dân công hỏa tuyến, trong đó có 42.913 liệt sỹ hy sinh trên các chiến trường; 22.004 thương binh; 11.049 bệnh binh. Nghệ An có 97 đơn vị và 61 cá nhân được nhà nước tuyên dương đơn vị anh hùng, anh hùng lực lượng vũ trang và 4 đơn vị, 27 cá nhân được tuyên dương anh hùng lao động (tuyên dương năm 1978); 797 bà mẹ được nhà nước tuyên dương Bà mẹ Việt Nam anh hùng(2).
Những đóng góp và hy sinh to lớn của quân và dân Nghệ An đã đóng góp xứng đáng với quân và dân cả nước đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược như lời căn dặn của Bác.
Bước sang thời kỳ khôi phục, phát triển kinh tế, đổi mới và hội nhập, Đảng bộ tỉnh nhà đã có nhiều chủ trương và biện pháp thiết thực để "thực hiện dân chủ với nhân dân". Theo số liệu tổng kết thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, hiện nay trên địa bàn tỉnh có gần 100 điểm sáng về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Nhân dân phường, xã, khối, xóm được tham gia bàn bạc, giám sát quyết định nhiều công việc quan trọng liên quan đến kinh tế, xã hội trên địa bàn. Phường, xã, khối, xóm đã thành lập Ban thanh tra nhân dân hoạt động hiệu quả. Hàng năm lãnh đạo các cấp đã tổ chức đối thoại với nhân dân để nghe, giải quyết những kiến nghị của nhân dân.
Về lĩnh vực khôi phục và phát triển kinh tế trong những năm gần đây đã có những phát triển, đạt được kết quả đáng ghi nhận. Tổng sản phẩm (GRDP) trong 5 năm 2015 - 2019 tăng bình quân 7,94%; năm 2019 đạt 14.052 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 38 triệu đồng; Năm 2019 thu ngân sách đạt 16.354 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 43,08 triệu đồng. Đến cuối năm 2019, Nghệ An có 265 xã đạt chuẩn nông thôn mới chiếm 61,4% tổng số xã trên địa bàn tỉnh, cao hơn mức bình quân chung cả nước. Có 4 huyện đạt chuẩn và hoàn thành xây dựng nông thôn mới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4% năm 2019.
Về lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt được nhiều kết quả. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực trong cộng đồng. Các hoạt động văn hóa, thể thao, lễ hội diễn ra sôi nổi, lành mạnh tạo không gian văn hóa cho cộng đồng dân cư. Về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực, mạng lưới bệnh viện, phòng khám được mở rộng, chất lượng khám chữa bệnh không ngừng nâng cao. Truyền thống hiếu học, học giỏi tiếp tục được phát huy. Nghệ An luôn đứng trong tốp đầu cả nước học sinh giỏi quốc gia và quốc tế. Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia năm 2019-2020, Nghệ An có 82/102 học sinh đạt giải, trong đó 13 giải nhất, 31 giải nhì, 25 giải 3 và 13 giải khuyến khích, là tỉnh trong tốp đầu học sinh giỏi quốc gia.
50 năm qua, thực hiện điều mong muốn của Bác, Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà đã phấn đấu đạt được những kết quả to lớn; song hiện tại, Nghệ An đang đứng trước những khó khăn thách thức: kinh tế phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, tốc độ tăng trưởng chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa đồng bộ. Thu nhập bình quân đầu người tuy có tăng nhưng vẫn còn thấp, chỉ bằng 70% thu nhập bình quân của cả nước. Thu ngân sách chưa đủ chi. Môi trường đầu tư tuy được cải thiện, song chưa đủ hấp dẫn, chưa tạo được ấn tượng mạnh để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
50 năm trôi qua, mong muốn của Bác rất mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc vẫn đang là mục tiêu phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân Nghệ An.
Để mong muốn của Bác sớm trở thành hiện thực không còn là mục tiêu phấn đấu, cần có một chương trình khoa học tổng kết quá trình đổi mới, hội nhập, phát triển rút ra những bài học về sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và tổ chức Đảng các cấp; về sự quản lý và điều hành của các cấp chính quyền; về thực hành dân chủ của nhân dân trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Trên cơ sở tổng kết khoa học lý giải và làm rõ những vấn đề đang còn trăn trở trong quá trình xây dựng và phát triển: Tiềm năng thực sự của Nghệ An là gì? Phải chăng là tài nguyên thiên nhiên (đất đai, rừng biển), nguồn nhân lực, vị thế địa lý kinh tế? Xác định đúng tiềm năng để xây dựng chiến lược, cơ chế chính sách phát triển. Vì sao các doanh nghiệp người Nghệ rất khó thành công trên chính vùng đất sinh ra họ mà lại thành công ở các vùng đất khác? Người giỏi, người tài ít có cơ hội lập nghiệp ở quê hương. Đến nay vẫn chưa có các nhà đầu tư lớn đầu tư làm ăn tại Nghệ An? Và một số vấn đề khác cần được làm sáng tỏ.
Những vấn đề trên đây không phải là mới, chúng ta đã biết, đã trăn trở nhiều, song để có một câu trả lời thực sự khoa học thì vẫn chưa tìm được. Do vậy cần phải có một chương trình nghiên cứu, tổng kết khoa học để tháo gỡ dần các nút thắt trong quá trình phát triển để Nghệ An trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc như mong muốn của Bác Hồ kính yêu.
Chú thích
(1). BCH Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An, Lịch sử Đảng bộ Nghệ An tập II (1954-1975), Nxb. Nghệ An-NA-1999, trang 234-235.
(2). Sđd, trang 295.
Vi Văn An
1. Giới thiệu chung
Việt Nam và Lào là hai quốc gia có chung đường biên giới, vốn có nhiều nét tương đồng về lịch sử và văn hóa: đa tộc người, đa ngôn ngữ, nhiều nghề thủ công phát triển (dệt vải, đan lát, làm gốm, sơn mài…); phổ biến tập quán ở nhà sàn; có truyền thống cộng đồng làng bản; duy trì những hình thức tín ngưỡng dân gian bản địa… Hai nước Việt - Lào vốn có quan hệ hữu nghị đặc biệt và đã trải qua hơn nửa thế kỷ (từ 1962). Ngày nay, cùng với các quốc gia Đông Nam Á khác, nhân dân hai nước Việt - Lào đều đang đứng trước những thách thức về giữ gìn bản sắc văn hoá trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển. Trên cơ sở đánh giá thực trạng về biến đổi văn hóa của các tộc người thiểu số vùng biên giới Việt-Lào, địa bàn tỉnh nghệ An, hy vọng, bài viết này sẽ góp phần khỏa lấp khoảng trống trong nghiên cứu về vấn đề này.
2. Thực trạng biến đổi văn hóa của các tộc người vùng biên giới Việt - Lào địa bàn tỉnh Nghệ An
2.1. Tình hình chung
Biên giới Việt - Lào thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An vốn là khu vực có địa hình chia cắt mạnh, khí hậu khắc nghiệt, giao thông đi lại khó khăn. Trừ người Thái là cư dân chiếm đa số, còn lại Mông và Khơ-mú là những tộc người có dân số ít, cư trú rải rác, phân tán, đời sống khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao.
Có thể nói, từ năm 1978 trở về trước, dường như người ta chỉ biết đến một cửa khẩu duy nhất từ địa phận tỉnh Nghệ An qua Lào là cửa khẩu Nặm Cắn-thuộc hạng tiểu ngạch-qua quốc lộ 7A, vốn do thực dân Pháp mở từ năm 1918, hoàn thành năm 1922-1925. Năm 1979, trên cơ sở Hiệp định hoạch định biên giới được ký giữa hai nước Việt - Lào, một số cửa khẩu tiểu ngạch được mở để người và hàng hóa lưu thông qua lại; chợ biên giới Việt-Lào từ đó cũng được tổ chức ở một số cửa khẩu thuộc các huyện giáp biên, trong đó có chợ biên Nặm Cắn - Nghệ An, nên hàng hóa của Lào, Thái Lan có điều kiện du nhập sang Việt Nam qua cửa khẩu này. Tuy nhiên, nền kinh tế của người dân hai bên biên giới cơ bản vẫn mang tính tự cung, tự cấp. Các hoạt động buôn bán, trao đổi qua lại chủ yếu là hàng nông sản, người dân khu vực biên giới chủ yếu thuần nông, đi mua nhiều hơn đi bán. Vì thế, có thể nói: cho đến trước công cuộc Đổi mới 1986, khu vực biên giới Việt - Lào địa bàn tỉnh Nghệ An cơ bản vẫn là một trong những khu vực nghèo nhất của nước ta về kinh tế.
Từ năm 1986, công cuộc Đổi mới của Đảng ta được khởi xướng, nhất là việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội chung của cả nước và các chính sách phát triển kinh tế-xã hội vùng miền núi, dân tộc như các chương trình, dự án: 327 (1992-2000), 135 (1998-2020), 134 (2004-2008); chương trình 30A (2008-2020)... Nhờ đó, bắt đầu từ những năm 1995-1996 cho đến những năm 2000 trở lại đây, do tác động của nền kinh tế thị trường, giao lưu và hội nhập khu vực, nhất là hiệu quả của các chương trình, dự án của Chính phủ nêu trên, đã từng bước làm thay đổi diện mạo của nông thôn miền núi nói chung, các dân tộc thiểu số khu vực biên giới (nhất là khu vực cửa khẩu) Việt-Lào, tỉnh Nghệ An nói riêng. Chính những thay đổi về cơ sở hạ tầng, về đời sống kinh tế là tác nhân cơ bản, dẫn tới những biến đổi về văn hóa của các tộc người thiểu số khu vực biên giới Việt - Lào, tỉnh Nghệ An nói trên.
2.2. Sự biến đổi của các dạng thức văn hóa
2.2.1. Biến đổi về văn hóa vật chất
- Một trong những thay đổi dễ nhận thấy nhất về nhà cửa các dân tộc thiểu số vùng biên giới Việt - Lào tỉnh Nghệ An là việc tiếp thu ảnh hưởng kiểu nhà nhiều mái của Lào. Theo đó, tại các bản làng người Thái, người Khơ-mú, người Mông, dọc các trục lộ như đường 7, đường 48 hướng lên cửa khẩu với Lào như: Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong... các ngôi nhà sàn, nhà xây gạch, xi măng cốt thép có nhiều tầng mái chồng lên nhau, hay mái thò, mái thụt, giống như kiểu mái nhà của người Lào, người Thái Lan khá phổ biến. Nhiều ngôi nhà sàn khu vực cửa khẩu biên giới thường không còn giữ nguyên vẹn kiểu nhà sàn truyền thống, mà thường được sáng tạo thêm về kiểu dáng như nhà hình chữ L, hình chữ U hoặc nối thêm lớp mái ngói phụ tại vị trí trên gầm sàn, đua ra chừng 60cm/3 hàng ngói. Thêm nữa, nếu như trước đây, các ngôi nhà trệt hay nhà sàn của các dân tộc vùng biên giới Việt-Lào thường không nối thêm mái hiên thì hiện nay, cả nhà sàn và nhà trệt đều phổ biến lắp nối thêm phần mái hiên bằng tôn, kéo ra phía mặt tiền ngôi nhà. Đương nhiên, đối với các ngôi nhà kiểu mới này, vật liệu và cách bố trí mặt bằng sinh hoạt cũng thay đổi theo.
Một điểm thay đổi nữa liên quan đến nhà cửa là, truyền thống cư trú mật tập dọc theo các trục lộ biên giới, cửa khẩu thường bị phá vỡ, chuyển sang hình thái cư trú kiểu đường phố. Các bản của người Thái ở cửa khẩu Nặm Cắn, Thông Thụ; làng của người Kinh ở cửa khẩu Thanh Thủy là những ví dụ. Số lượng nhà xây, nhà tầng bằng vật liệu gạch, xi măng, bê tông, cốt thép ngày càng chiếm ưu thế hơn những ngôi nhà cất dựng bằng gỗ, tre, lợp cỏ tranh, lá cọ.
- Điều dễ nhận diện nhất về sự thay đổi trong trang phục các dân tộc vùng biên giới, cửa khẩu Việt - Lào tỉnh Nghệ An là: trào lưu mặc các loại váy kiểu Lào, váy Thái Lan của hầu hết chị em phụ nữ các dân tộc như Thái, Khơ-mú, nhất là Khơ-mú và nhóm Tày Khăng. Cũng như thế, hầu hết phụ nữ Mông vùng biên giới, cửa khẩu Việt-Lào ở Kỳ Sơn, Quế Phong cũng chuyển sang mặc những bộ y phục (áo, váy, khăn...) kiểu người Mông có xuất xứ từ Lào. Các loại y phục: áo, váy, khăn cắt may bằng vải công nghiệp giá rẻ, nhẹ, nhiều màu sắc, dễ mua phù hợp với thị hiếu, tâm lý, sở thích của phụ nữ các tộc người thiểu số vùng biên giới.
Cùng với y phục, các loại quần áo, chăn, đệm và nhiều đồ gia dụng khác với đủ chủng loại, màu sắc, kích cỡ... được bày bán khá nhiều tại các quầy hàng, ki ốt hay trong các sạp hàng của chợ biên giới, cửa khẩu.
- Văn hóa ăn uống của các dân tộc khu vực biên giới Việt - Lào tỉnh Nghệ An dường như không chịu tác động và ảnh hưởng của ẩm thực Lào là bao. Nguyên nhân của điểm này là do người dân hai bên biên giới có nhiều điểm tương đồng văn hóa, trong đó có cả ẩm thực. Thay đổi chủ yếu thể hiện ở tính sầm uất hay nghèo nàn của các dịch vụ hàng quán, buôn bán, nhà nghỉ, các ki ốt bán hàng tạp hóa, chợ phiên ở hai bên cửa khẩu cũng như khu vực biên giới. Theo đó, trừ cửa khẩu quốc tế Nặm Cắn, các cửa khẩu tiểu ngạch còn lại thường chỉ có vài quán ăn bình dân, vài ki ốt bán hàng tạp hóa của tư nhân, phục vụ nhu cầu người qua lại và người dân trong vùng hay vài tư thương thuê đất dựng nhà tạm để thu mua, gom buôn bán hàng nông sản nhập về nội địa hai bên biên giới. Ngoài những món ăn thể hiện đặc trưng vùng miền, địa phương (đồ nướng, chẻo, lạp...), sự thay đổi đáng kể trong văn hóa ăn uống của các dân tộc vùng biên giới, cửa khẩu Việt - Lào tỉnh Nghệ An chủ yếu thể hiện ở việc chế biến các món ăn hằng ngày giống như miền xuôi (xào, rán, lẩu...), nhất là trong tiệc cưới, liên hoan.
Một điểm mới nữa về biến đổi trong ăn uống của người dân ở vùng biên giới này là: sự trở lại và lên ngôi của các món ăn truyền thống, nhất là các món ăn truyền thống của người Thái như cá nướng, cá hấp, lạp, gỏi, cơm lam, thịt nướng, chẻo, măng, rau đồ. Cùng với các món ăn là các loại rượu trắng, rượu cần đều tự phong và dán mác đặc sản địa phương.
2.2.2. Biến đổi về văn hóa xã hội
Tuy thiết chế bản-mường của người Thái hay các hình thức tự quản của các dân tộc thiểu số khác (Mông, Khơ-mú) với tư cách là phi quan phương, không còn hiện hữu như trong xã hội truyền thống, song chúng vẫn còn vai trò chi phối nhất định tới sự vận hành xã hội của các dân tộc vùng biên giới Việt - Lào. Các tập quán tốt đẹp trong xã hội truyền thống như: tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau khi ốm đau, hoạn nạn, khó khăn vẫn được duy trì trong các bản làng các dân tộc. Vai trò của người già/người có uy tín, thầy cúng, thầy thuốc, thầy dạy chữ vẫn được tôn trọng và đề cao trong xã hội.
Tuy trong xã hội không còn giai cấp, nhưng ở bản làng nào cũng có nhà giàu, nhà nghèo. Hiện tượng phân hóa giàu nghèo trong cộng đồng ngày càng có chiều hướng sâu sắc, nhất là giữa nông dân lao động và một bộ phận bộ cán bộ, người buôn bán ở huyện thị.
Vấn đề xã hội nổi cộm nhất của các dân tộc vùng biên giới Việt - Lào tỉnh Nghệ An có lẽ là: hiện tượng xâm canh đất đai, xâm cư diễn ra tại một số nơi từ Việt Nam sang Lào và ngược lại. Bên cạnh đó, di dịch cư và di cư tự do trong nội địa cũng như qua lại khu vực biên giới hai bên vẫn chưa chấm dứt. Điều này đã gây xáo trộn dân cư, bất ổn về quản lí xã hội đối với chính quyền địa phương. Không kém phần nổi cộm là các vụ buôn lậu ma túy, thuốc lắc từ Lào sang hoặc tàng trữ chất nổ, vũ khí mà vài năm gần đây các lực lượng và cơ quan chức năng đã triệt phá. Ngoài ra, ở một số nơi, tình trạng nhiễm HIV/AIDS có nguy cơ gia tăng.
Một điểm biến động xã hội khác ở vùng biên giới Việt-Lào tỉnh Nghệ An chính là: bên cạnh số thanh niên đi làm công nhân tại các công ty, liên doanh ở các tỉnh phía Nam nay ra làm công nhân hoặc làm thuê tại các tỉnh phía Bắc thì làn sóng di cư của lao động tự do người Việt Nam sang Lào và Thái Lan tìm kiếm công ăn việc làm ngày càng tăng.
Riêng vấn đề hôn nhân xuyên biên giới thường chỉ diễn ra đối với người Mông và người Thái khu vực giáp biên.
2.2.3. Biến đổi về văn hóa tinh thần
Các dân tộc sinh sống tại các tỉnh dọc theo biên giới Việt-Lào, tỉnh Nghệ An đều duy trì và thực hành tín ngưỡng, tôn giáo bản địa. Việc thờ cúng ma nhà, các nghi lễ ở phạm vi gia đình như buộc cổ tay, cơm mới, lễ mừng thọ, lễ giải hạn, cúng vía bên ngoại... vùng người Thái, người Khơ-mú, Mông phổ biến ở hầu khắp các bản làng vùng biên giới. Bên cạnh đó, hiện tượng tuyên truyền, lôi kéo người dân theo đạo Vàng Chứ, Tin Lành vùng người Mông vẫn còn tiềm ẩn. Điều này đã gây ra nhiều biến động cả về văn hoá, xã hội..., tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị, trật tự an ninh cũng như đảo lộn đời sống của người dân tại cơ sở.
Một điểm thay đổi đáng kể trong văn hóa tinh thần của các dân tộc vùng biên giới Việt-Lào, tỉnh Nghệ An trong nhiều năm gần đây là: sự phục hồi và thực hành trở lại của các lễ hội cộng đồng các dân tộc biên giới. Việc tổ chức lễ hội luôn được các cấp chính quyền quan tâm, giúp đỡ, được người dân đồng tình hưởng ứng tham gia. Đó là Lễ hội đền Chín Gian (Quế Phong), đền Vạn (Cửa Rào, Tương Dương), Pu Nhạ Thàu (Kỳ Sơn).
Cũng cần nói thêm là do đã bỏ việc phát rừng làm rẫy, nên các nghi lễ nông nghiệp liên quan đến nương rẫy ở vùng người Thái (các huyện vùng thấp) đã và đang bị lãng quên. Các nghi lễ liên quan đến rẫy chỉ còn được duy trì và thực hành ở một số tộc người: Khơ-mú, Mông vùng sát biên.
Điểm mới trong dân ca, dân vũ và nhạc cụ của các dân tộc vùng biên giới Việt - Lào là các làn điệu dân ca các dân tộc Thái, Mông, Khơ-mú được sưu tầm, dịch thuật hay sáng tác mới để biểu diễn trên sân khấu, ghi đĩa VCD. Cũng như thế, một số điệu múa dân gian: múa Thái, Mông, Khơ-mú được sưu tầm, cải biên và sân khấu hóa, trình diễn trong các sự kiện lớn của vùng, địa phương. Tháng 9/2017, Lễ hội Xăng Khan của người Thái Nghệ An đã được vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bên cạnh đó, rất nhiều các loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc biên giới Việt - Lào cũng đã và đang được phục hồi, truyền dạy và sử dụng trình tấu trong các dịp biểu diễn, giao lưu văn hóa, văn nghệ cấp tỉnh, cấp huyện. Tuy nhiều trò chơi dân gian truyền thống bị mai một, song một số trò chơi dân gian như ném còn, bắn nỏ, đẩy gậy, hát giao duyên cùng với các trò mới, thi nấu cơm, thi người đẹp cùng với các hoạt động thể thao khác (bóng chuyền, bóng đá) luôn thu hút được đông đảo mọi tầng lớp tham gia.
Ngoài ra, điều đáng vui mừng là hầu hết các huyện giáp biên, tỉnh Nghệ An đều mở các lớp học chữ Thái, gồm: Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương.
Từ những cứ liệu trình bày trên đây ta thấy:
(i). Sự biến đổi văn hóa của các dân tộc thiểu số vùng biên giới Việt-Lào, tỉnh Nghệ An về cơ bản vẫn là do tác động tích cực của các chủ trương, chính sách, các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Chính phủ; biết tận dụng tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Sự biến đổi ngày càng sâu rộng về lĩnh vực sinh kế, thể hiện ở sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cây con, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật... trong nông nghiệp của các tộc người khu vực biên giới chính là nguyên nhân tác động đến sự thay đổi của các lĩnh vực văn hóa của họ.
(ii). Trong các dạng thức văn hóa, có lẽ văn hóa vật chất là biến đổi sâu rộng hơn cả, nhất là dọc đường chính và khu vực cửa khẩu. Đó là sự thay đổi về hạ tầng cơ sở, dịch vụ, nhà hàng, chợ, nhà nghỉ, công trình phúc lợi, nhất là các khu làm việc của các cơ quan Nhà nước và cả các điểm du lịch hay di tích và danh thắng.
(iii). Giữa cư dân cư trú xung quanh cửa khẩu hay dọc theo trục lộ chính với cư dân cư trú dọc tuyến biên giới, vùng sâu, vùng xa thì mức độ biến đổi về sinh kế cũng như các dạng thức văn hóa cũng có sự khác nhau. Từ ăn mặc, tiện nghi sinh hoạt trong nhà cho đến phương tiện đi lại và thờ cúng. Bộ phận cư dân vùng sâu, vùng xa, dọc sát biên giới phần nào vẫn còn bảo lưu được những yếu tố của văn hóa truyền thống tộc người.
3. Một số vấn đề đặt ra
Trong quá trình hội nhập và phát triển bền vững, sự biến đổi văn hóa của các dân tộc thiểu số khu vực biên giới Việt-Lào, tỉnh Nghệ An đặt ra những thách thức nan giải, khó lường, liên quan đến cả ba dạng thức văn hóa sau đây:
(i). Về văn hóa vật chất, do chính sách thông thoáng đối với việc buôn bán và đi lại thăm thân giữa cư dân hai bên biên giới thuận lợi, nên vấn đề nhập lậu các loại thực phẩm; các loại củ, quả, rau; lợi dụng nhãn mác... không đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm qua cửa khẩu biên giới Việt - Lào (chính ngạch hoặc tiểu ngạch) có nguy cơ gia tăng.
Bên cạnh đó, nhiều loại hàng giả, đồ uống kém chất lượng, nguy hiểm đối với sức khỏe (như quần áo, giày dép, các loại nước khoáng, nước ngọt, bánh kẹo...) chuyên chở lên khu vực miền núi, biên giới bán cho người dân.
(ii). Về văn hóa xã hội, như đã đề cập ở trên, vấn đề tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh trật tự khu vực biên giới Việt - Lào là vấn đề lao động tự do người Việt Nam sang làm việc tại các nước Lào, Thái Lan. Phần lớn họ đi lao động "chui", nên thường bị các chủ ép làm việc quá giờ, bị hạn chế đi lại, giữ lương hoặc giấy tờ tùy thân, bị quỵt tiền công và đánh đập; và nhiều trường hợp đáng tiếc xảy ra. Bên cạnh đó, số người từ nhiều nơi khác đến làm ăn, buôn bán tại các cửa khẩu cũng gây khó khăn cho công tác quản lý, tiềm ẩn các tệ nạn xã hội.
Đối với biên giới Việt - Lào, vấn đề nổi cộm nhất là nạn buôn bán ma túy, mua bán, tàng trữ vũ khí, vượt biên trái phép sang đất bạn, xâm canh trồng cây thuốc phiện, buôn lậu v.v.. xảy ra thường xuyên, làm cho an ninh biên giới phức tạp, mất ổn định. Hiện tượng tranh giành đất đai canh tác giữa dân mới di cư đến với dân sở tại diễn ra gay gắt; mặt khác các khu rừng già, rừng đầu nguồn bị tàn phá nặng nề. Cùng với đó là, nguy cơ lớn nhất đến từ vấn đề quan hệ dân tộc xuyên biên giới gắn với yếu tố ly khai, tự trị. Do bị các thế lực phản động, thù địch chia rẽ, xúi giục, kích động, nên từ quan hệ tộc người xuyên biên giới có thể dẫn tới tình trạng ý thức tộc người nổi trội hơn ý thức quốc gia, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết dân tộc và sự thống nhất của quốc gia dân tộc Việt Nam.
(iii). Về văn hóa tinh thần, vấn đề nổi cộm hiện nay là sự truyền bá của đạo Tin Lành vào vùng các dân tộc thiểu số khu vực biên giới có sự can thiệp, chỉ đạo, lợi dụng của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam. Điều này đã gây ra nhiều biến động cả về văn hoá, chính trị, xã hội... trong vùng miền núi, biên giới. Ở nhiều nơi, cơ sở đạo Tin Lành đã khá ổn định, hình thành tập quán sinh hoạt của đồng bào. Đây là một vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc, khách quan và khoa học, nhằm đảm bảo nhu cầu cần tâm linh chính đáng của đồng bào, góp phần đấu tranh chống việc lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo của các thế lực phản động, thù địch đang âm mưu phá hoại cách mạng, phá hoại công cuộc đổi mới, sự nghiệp CNH-HĐH và xây dựng nông thôn mới của Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đối với các tộc người thiểu số nói chung, người Mông nói riêng ở vùng miền núi nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, vấn đề đáng lưu ý hiện nay ở vùng miền núi, dân tộc, nhất là vùng biên giới Việt - Lào là hiện tượng một nhóm nhà sư nhân danh người của Trung ương Hội Phật giáo Việt Nam đến gặp chính quyền địa phương, xin cấp đất để xây dựng nhà chùa, lôi kéo tín đồ. Điều này thường gây nên sự xung đột tín ngưỡng với người dân địa phương vốn chỉ thực hành tín ngưỡng bản địa.
Cũng cần đề cập thêm là việc lợi dụng tổ chức một số lễ hội tín ngưỡng ở một số địa phương biên giới, không đúng bản chất và ý nghĩa, mà chủ yếu nhằm mục đích thương mại, buôn thần bán thánh đã và đang có xu hướng phát triển. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu một cách khoa học, nghiêm túc nhằm hạn chế các nguy cơ tiềm ẩn và lợi dụng của các phần tử, thế lực phản động.
Nghệ An đã trở thành tỉnh khá như mong muốn của Bác Hồ?
LTS: Cách đây hơn 50 năm, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bức thư cuối cùng cho Đảng bộ và nhân dân Nghệ An. Đây cũng được xem là Di chúc Người dành cho quê hương. Trong thư, Bác căn dặn: "Nghệ An là một tỉnh rộng lớn, có tài nguyên phong phú, có nhân dân cần cù lao động và rất cách mạng. Rất mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc".
Để đánh giá lại chặng đường tỉnh Nghệ An đã nỗ lực thực hiện theo Di chúc của Người; đặc biệt để góp phần "hiến kế" các giải pháp trong phát triển kinh tế - xã hội trước thềm Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn Nghệ An tổ chức lấy ý kiến của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý,… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
* *
*
1. Ông Hồ Sĩ Hùy, nguyên Trưởng bộ môn Lịch sử Việt Nam - Khoa Sử, ĐH Vinh:
Bức thư cuối cùng của Bác gửi là di sản đối với Đảng bộ và
nhân dân tỉnh Nghệ An
Ngày 14/6/1957, Bác Hồ về thăm quê hương lần thứ nhất. Bên đồng chí và người thân, Người lẩy Kiều: "Quê hương nghĩa trọng tình cao/ Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình". Tình nghĩa của Người đối với quê hương thật sâu nặng! Theo thống kê bước đầu của chúng tôi, từ năm 1930 đến lúc mất, Người có 9 bài báo, 31 bức thư, 10 bài nói chuyện, 3 bức điện, 2 lần về thăm, 1 lời đề tựa nói đến quê hương Nghệ An hoặc trực tiếp trò chuyện thân tình với nhân dân, cán bộ Nghệ An. Là người con của quê hương Người, dân Nghệ An ai mà chẳng tự hào!
Đặc biệt, trong bức thư cuối cùng ngày 21/7/1969 gửi Ban Chấp hành Đảng bộ và nhân dân Nghệ An, Bác chỉ ra tiềm năng to lớn của Nghệ An và nêu mong muốn thiết tha của Người đối với tỉnh nhà: "Nghệ An là một tỉnh rộng lớn, có tài nguyên phong phú, nhân dân cần cù lao động và rất cách mạng. Bác mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc".
Ý nghĩa bức thư thật sâu sắc! Nó có tác dụng động viên cổ vũ và nhắc nhở cán bộ, nhân dân tỉnh ta nỗ lực phấn đấu. Bác Hồ đã chỉ ra tiềm năng to lớn của tỉnh ta. Từ đó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra nguyên nhân vì sao Nghệ An chưa thực hiện trọn vẹn lời Người dạy để khắc phục.
Công bằng mà xét, 52 năm thực hiện bức thư cuối cùng Bác Hồ gửi quê hương, Đảng bộ và nhân dân Nghệ An đã có nhiều thành tích trong xây dựng tỉnh nhà. Từ một tỉnh thường xuyên thiếu đói, thiên nhiên khắc nghiệt, Nghệ An đã đạt sản lượng lương thực mỗi năm trên một triệu tấn, sản xuất nông nghiệp đi mạnh vào sản xuất hàng hóa và ứng dụng công nghệ cao. Tỉnh đã và đang thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trong nước và quốc tế xây dựng khu kinh tế Đông Nam, các khu công nghiệp ở Bắc Vinh - Nam Cấm, Hoàng Mai - Đông Hồi, Việt Nam - Singapore (VSIP), KCN WHA Nghệ An (Thái Lan), khu nông nghiệp công nghệ cao Phủ Quỳ…
Đến nay Nghệ An tuy chưa trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc như Bác hằng mong, nhưng rõ ràng là đang trên đà tiến tới đạt mục đích đó. Nhưng còn nguyên nhân chưa đạt:
1. Bác từng nói "một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"!... "Tự mình phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý"…" Mình trước hết phải siêng năng trong sạch mới bảo người ta trong sạch siêng năng được" v.v… Các đồng chí lãnh đạo phải khắc sâu những lời dạy đó! Nói học Bác thì quá khó, xin các vị lãnh đạo hãy học tấm gương đồng chí Trương Đình Tuyển người Diễn Châu (Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An 2/2000 đến 8/2002).
2. Những lời Bác dặn cán bộ, đảng viên trong thư này: cần đề cao chữ Dân, luôn lấy dân làm gốc, "tích cực thực hiện dân chủ với nhân dân hơn nữa",… "hết sức chăm lo đời sống nhân dân", khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng Đảng, góp ý kiến về việc chọn người vào Đảng, tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, để mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ngày càng thêm gắn bó máu thịt. Bác yêu cầu cán bộ, đảng viên phải không ngừng "nâng cao đạo đức cách mạng, đổi mới phong cách và phương pháp công tác", "cố gắng sát dân"… thì cán bộ, lãnh đạo ngày nay cần thực hiện nghiêm những lời Bác dạy đó.
3. Con người là vốn quý nhất, nhất là các bậc hiền tài. Người xưa nói: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia". Trong lịch sử xưa nay, Nghệ An có rất nhiều bậc hiền tài! Ngày nay họ đã được trọng dụng ra sao? Có phải ta còn chọn người nhà, người cùng cánh? Tại sao Nghệ An từ lâu đây đó vẫn lưu truyền câu nói: "Giàu có thì ghét, đói rét thì khinh, thông minh không sử dụng"? Có phải ta đã để người tài tỉnh nhà không chịu lập nghiệp ở quê hương?
2. PGS.TS Nguyễn Đăng Bằng - Nguyên Trưởng khoa Kinh tế, Đại học Vinh:
Xét toàn diện Nghệ An thật sự là tỉnh khá cả kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng
Phải nói rằng, suốt nhiều thập kỷ qua Đảng bộ và nhân dân Nghệ An luôn trăn trở về lời dặn trong thư của Bác: "rất mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá của miền Bắc".
Lời dặn của Bác Hồ:
Bác về nước năm 1941, cho đến khi đi xa, Bác về quê chỉ có 2 lần. Nhưng trong tâm trí Bác quê hương Nghệ An vẫn là nỗi niềm đau đáu, nhớ thương day dứt. Ngày 21/7/1969 trước lúc đi xa không đầy 2 tháng Bác đã viết bức thư cuối cùng gửi Đảng bộ và nhân dân Nghệ An. Từ đó đến nay đã hơn 50 năm, Đảng bộ và nhân dân Nghệ An luôn quyết tâm thực hiện cho được lời di nguyện của Bác trước lúc đi xa, đó là "phấn đấu để Nghệ An trở thành một trong những tỉnh khá nhất của miền Bắc".
Vậy "tỉnh khá" trong tâm nguyện của Bác là thế nào? Tại thời điểm năm 1969 Nghệ An chưa là tỉnh khá, nhưng đến nay đã là tỉnh khá chưa? Tỉnh khá theo di nguyện của Bác là gì? Cần phải làm rõ vấn đề này trước khi tìm lời giải bài toán phát triển của Nghệ An. Đâu là vấn đề mà Bác nhắc nhở Nghệ An phải làm? Đó là: "Tích cực thực hiện dân chủ với nhân dân hơn nữa. Khôi phục và phát triển kinh tế. Hết sức chăm lo đời sống nhân dân và cố gắng góp nhiều công sức hơn nữa để cùng quân và dân cả nước đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược". Có nên coi đây là 4 nội dung của một tỉnh khá không? Trong 4 nội dung trên bao gồm cả kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng. Như vậy chúng ta không nên nhìn phiến diện chỉ tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế. Cần nhấn mạnh thêm mục tiêu dân chủ với nhân dân, chăm lo đời sống của nhân dân và củng cố an ninh quốc phòng.
Công bằng mà nói nếu xét về 4 tiêu chí trên thì Nghệ An hiện nay đã là tỉnh khá của cả nước. Thật không công bằng khi mặc định Nghệ An là tỉnh nghèo, chậm phát triển. Tôi thấy hiện nay Nghệ An đã là tỉnh khá của cả nước, chứ không phải riêng miền Bắc. Về tất cả các mặt Nghệ An đứng thứ 15/63 tỉnh thành. Có mặt Nghệ An thuộc top thứ 10 của cả nước. Vậy Nghệ An đã là tỉnh khá. Xét toàn diện Nghệ An thật sự là tỉnh khá cả kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng. Giờ đây Nghệ An đang phấn đấu trở thành tỉnh giàu của cả nước. Để đạt được mục tiêu trên, Nghệ An cần vượt qua khó khăn, hạn chế cố hữu của mình.
Hạn chế:
Nghệ An vẫn tồn tại những hạn chế mà Bác Hồ đã chỉ ra. Câu hỏi: Vì sao Nghệ An là tỉnh lớn, dân cần cù, giàu tài nguyên, vị trí địa lý thuận lợi mà tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn so với các tỉnh khác trong khu vực (Thanh Hóa, Hà Tĩnh)?
Là do: Chưa cân đối được ngân sách hàng năm (tổng thu NS đạt 60% tổng chi NS); Chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn, mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế; Đầu tư vào Nghệ An (nhất là đầu tư nước ngoài) qui mô nhỏ, vốn mỏng, công nghệ thấp, đầu tư núp bóng; Nông nghiệp chưa có sản phẩm cạnh tranh cao, chưa tương xứng với tiềm năng đất đai, rừng, biển, nhất là miền Tây Nghệ An. Chủ trương đúng nhưng thiếu giải pháp mạnh; Cơ sở hạ tầng tuy phát triển nhanh nhưng thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn dài hạn; Chưa chú trọng phát triển, ứng dụng công nghệ cao trong đầu tư phát triển. Có rất nhiều dự án nhưng do công nghệ thấp nên sản phẩm làm ra thiếu tính cạnh tranh cao; Chiến lược dài hạn còn thiếu, quy hoạch không ổn định, chính sách chưa đủ mạnh kích thích tăng trưởng kinh tế; Tình trạng tham nhũng nhất là trong lĩnh vực đất đai chậm bị đẩy lùi, gây bức xúc trong dư luận.
Nguyên nhân:
Tư duy lãnh đạo của Nghệ An thiếu tính đột phá, mạnh mẽ, quyết đoán, vì thế Nghệ An bỏ lỡ nhiều cơ hội đầu tư mà đến nay rất khó để đối sánh được với Thanh Hóa và Hà Tĩnh. Theo cách nói của các chuyên gia là Nghệ An quá cầu toàn. Chúng ta đang ở trong kỷ nguyên số, cách mạng công nghiệp 4.0, thời gian cũng là một thước đo thiệt - hơn. Sớm hơn 1 ngày đã khác, còn chậm hơn 1 ngày thì chúng ta hoàn toàn thất bại. Tại sao Trung Quốc có thể làm và thông qua luật chỉ trong vòng 3 tháng, còn Tổng thống Mỹ có thể thông qua được 1 luật sau khi ngủ dậy? Nếu chúng ta không thay đổi tư duy theo kiểu xếp hàng hoặc chính trị hóa các quan hệ xã hội như hiện nay thì rất nguy hiểm.
Nền hành chính của Nghệ An cồng kềnh và kém hiệu quả. Nếu chúng ta chậm đổi mới thích ứng với cơ chế thị trường thì sẽ khó làm doanh nghiệp hài lòng. So với một số tỉnh lân cận, một số công chức hành chính của chúng ta như các ông vua con, sách nhiễu, gây khó khăn, chậm trễ trong giải quyết các thủ tục hành chính, lơ là trong thi hành công vụ. Công tác kế hoạch, quy hoạch chưa thật sự hợp lý, thiếu tính khả thi. Vì vậy đầu tư không hiệu quả. Thường xuyên điều chỉnh quy hoạch vì thiếu các điều kiện thực hiện nó, hoặc bị lợi ích nhóm chi phối.
Tiềm năng con người và công nghệ khai thác chưa hiệu quả. Bác Hồ nói người Nghệ An cần cù, yêu nước. Chưa lúc nào Bác nói người Nghệ An thông minh, càng không nói "địa linh nhân kiệt". Câu chữ của Bác dùng có ý tứ, cân nhắc. Không nên nói nhiều về sự thông minh tài giỏi của người Nghệ An. Nói Nghệ An rất nhiều người tài thế mà tại sao ở Nghệ An không phát huy được? Theo tôi chủ yếu là do thiếu cơ chế, chính sách phù hợp, thiếu quyết tâm chiến lược của người đứng đầu.
Môi trường tự nhiên xã hội cũng là một nhân tố gây khó dễ cho Nghệ An: Thời tiết khắc nghiệt, nắng gió, mưa bão nhiều, dẫn đến chi phí sản xuất quá cao.
3. Ông Trần Quốc Thành - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An:
Phát triển lực lượng doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển chưa thực sự là nhiệm vụ trọng yếu của các cấp chính quyền mà đang nặng về xem doanh nghiệp là đối tượng quản lý
Cho đến hôm nay (năm 2020) việc Nghệ An có bước phát triển vượt bậc so với chính mình thì bất cứ ai cũng đều cảm nhận được.
Nhưng so với tiềm năng và mong mỏi thì ai cũng băn khoăn, nuối tiếc. Rằng một vùng đất rộng, nhiều tiềm năng, đa dạng thổ nhưỡng, địa hình; vùng đất với nhiều người giỏi, tài năng,.. Sao vẫn chưa giàu? Vẫn chưa đạt như Bác Hồ mong muốn?
Nguyên nhân thì nhiều và đã được đánh giá ở nhiều cuộc tổng kết, hội thảo, ở đây tôi chỉ tiếp cận một góc cạnh nhỏ đó là: Doanh nghiệp.
Bất kỳ ở đâu, nếu doanh nghiệp ít hoặc nhỏ thì nếu có nguồn lực đổ vào, quyết tâm chính trị đến đâu thì cũng chỉ ở mức xoá đói giảm nghèo và từ từ khá lên mà thôi! Vì suy cho cùng, doanh nghiệp là chủ thể của nền kinh tế. Doanh nghiệp là nơi tổ chức sản xuất hàng hoá, tạo sản phẩm giá trị gia tăng, là nơi tạo việc làm, là nơi đóng góp ngân sách, thậm chí hỗ trợ cả an sinh xã hội, là đầu tàu dẫn dắt nông dân, hộ kinh doanh cá thể và kể cả làng nghề tiểu thủ công nghiệp…
Muốn làm giàu thì phải có lực lượng doanh nghiệp mạnh và đông.
Tuy nhiên, lực lượng doanh nghiệp của Nghệ An rất ít mà còn yếu nữa. Theo số liệu thống kê, luỹ kế đến đầu năm 2020, Nghệ An có 23.039 doanh nghiệp đăng ký, trong đó đang hoạt động gần 13.000 doanh nghiệp. Nếu tính bình quân ta thấy ở tỉnh ta, cứ 254 người mới có 01 doanh nghiệp (đang hoạt động). Nhìn sang tỉnh bạn (những tỉnh tạm gọi là khá giàu): Bình Dương có 44.600 doanh nghiệp đăng ký và 30.900 doanh nghiệp đang hoạt động, bình quân 71 người/doanh nghiệp; Bắc Ninh có 16.240 doanh nghiệp đang hoạt động, bình quân 80 người/doanh nghiệp. Như vậy, bình quân đầu người thì các tỉnh bạn gấp trên 03 lần Nghệ An. Nếu nhìn sâu hơn ta còn thấy, ở Bình Dương số doanh nghiệp hoạt động chiếm 69% số đăng ký (tương đương thế giới) so với 56,4% của Nghệ An.
Từ đó, ta thấy được gốc của vấn đề. Mặc dù rằng mọi so sánh đều khập khiễng! Trong khi đó, Nghệ An chưa có một chương trình cụ thể về phát triển doanh nghiệp mà đang còn nằm ở các nhiệm vụ, chương trình, đề án khác nhau và tương tự thế các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng nằm rải rác, thậm chí có người còn cho rằng đang thiếu bình đẳng! Phát triển lực lượng doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển chưa thực sự là nhiệm vụ trọng yếu của các cấp chính quyền mà đang nặng về coi doanh nghiệp là đối tượng quản lý.
Chúng ta đang xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2020 - 2030 và tầm nhìn 2045. Một vấn đề cốt lõi nhằm thực hiện được tầm nhìn, mục tiêu dài hạn thì rất cần tỉnh xây dựng Chương trình phát triển lực lượng doanh nghiệp trên tinh thần thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ 2017. Trong đó tập trung một số vấn đề sau:
Kiến nghị Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết phát triển doanh nghiệp tỉnh Nghệ An giai đoạn 2020 - 2030 để chỉ đạo toàn bộ hệ thống vào cuộc. Trong đó cần nhấn mạnh để mọi cán bộ đảng viên nhận thức sâu sắc nhiệm vụ xây dựng lực lượng doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển là nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên. Doanh nghiệp vừa là đối tác, vừa là đối tượng quản lý của chính quyền các cấp. Định hướng chương trình chính sách, cơ chế hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Mục tiêu phát triển lực lượng doanh nghiệp.
Xây dựng mục tiêu số lượng doanh nghiệp đến năm 2025, 2030 theo tiêu chí bình quân đầu người để có quyết tâm chính trị cao. Nên chăng đưa mục tiêu đến năm 2025 bình quân 150 người có 1 doanh nghiệp đang hoạt động (khoảng 20.000 doanh nghiệp), đến năm 2030 là bình quân 100 người có 1 doanh nghiệp hoạt động.
Muốn vậy, trước hết cần rà lại lực lượng hộ kinh doanh cá thể để hỗ trợ nâng họ thành doanh nghiệp. Nghệ An có khoảng 27.000 hộ kinh doanh cá thể hoạt động rất hiệu quả đóng góp trên 30% GRDP. Đây là nguồn cực kỳ quan trọng có thể nâng lên thành doanh nghiệp. Vấn đề là hỗ trợ họ như thế nào để họ muốn lớn lên! Và phải tìm hiểu kỹ vì sao họ không muốn lớn về hình thức?!
Cần kích hoạt mạnh hơn nữa để mọi người khởi nghiệp và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở tất cả các lĩnh vực, mọi tầng lớp, nhất là ở giới trẻ khởi nghiệp ở chính quê hương mình.
Để thực hiện mục tiêu trên rất cần tỉnh tiến hành giao chỉ tiêu cho từng huyện, thành, thị hàng năm và 5 năm. Bởi vấn đề hỗ trợ thành lập và quản trị rất cần Nhà nước (có thể thông qua Hội doanh nghiệp).
Trên cơ sở Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tỉnh cần xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ để xây dựng lực lượng doanh nghiệp, trong đó hỗ trợ tách bạch từng nhóm như sau:
+ Hỗ trợ xúc tiến thành lập: tư vấn, đào tạo tập huấn, tuyên truyền, vận động,..
+ Hỗ trợ sau khi thành lập: thuế, phí, vốn, tiếp cận đất đai, công nghệ, đào tạo nhân lực… Chính sách này cần nhắm vào đối tượng doanh nghiệp trẻ dưới 5 tuổi (đây là giai đoạn dễ bị phá sản).
+ Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển: đây là đối tượng trên 5 tuổi để họ tiếp tục đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm sáng tạo, phát triển thị trường,... Cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn tham gia thực hiện đầu tư công, dịch vụ công,…
Hội doanh nghiệp Nghệ An cần phát huy vai trò của mình trong chức năng hỗ trợ doanh nghiệp thành viên phát triển, đồng thời hỗ trợ đầu tư dẫn dắt các doanh nghiệp khởi nghiệp. Chính quyền cần có cơ chế ủy thác cho Hội thực hiện các dịch vụ công hỗ trợ doanh nghiệp theo chính sách.
Tỉnh cần sớm hình thành Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển doanh nghiệp (bao gồm cả khởi nghiệp và có thể thực hiện theo cơ chế công - tư, Hội doanh nghiệp có thể điều hành).
Định kỳ (có thể 1 - 2 tuần/1 lần) lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo huyện gặp gỡ doanh nhân để lắng nghe, tháo gỡ.
Đổi mới công tác thu hút đầu tư một cách chuyên nghiệp bài bản. Trên cơ sở định hướng cơ cấu kinh tế xã hội cần thu hút có trọng điểm một số đối tác nhà đầu tư chiến lược để tạo sự bứt phá, lan tỏa, là đầu kéo lực lượng doanh nghiệp.
Cải cách hành chính theo hướng phục vụ doanh nghiệp, phục vụ nhân dân. Sớm đưa vào hoạt động Trung tâm hành chính công cấp tỉnh, cấp huyện với ứng dụng công nghệ thông tin nhằm giám sát, lưu vết, định ngày xử lý của các chuyên viên, trưởng phòng, lãnh đạo ở mọi thủ tục.
Có cơ chế để doanh nghiệp đánh giá các sở, ngành, huyện và thậm chí kể cả lãnh đạo, chuyên viên để khen thưởng, xử phạt kịp thời, cũng như để biết mà sửa chữa, sắp xếp lại.
Thực hiện các chính sách đó đối với doanh nghiệp thì sẽ góp phần đưa tỉnh Nghệ An trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc như mong muốn của Bác Hồ.
4. Ông Trương Công Anh - Nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy:
Đã "mở", Nghệ An càng phải "mở" mạnh hơn, rộng hơn; cả mở lòng, mở tâm, mở trí
Cho đến hôm nay (năm 2020) Nghệ An vẫn chưa trở thành tỉnh khá như mong muốn của Bác Hồ, vì sao? Có thể về những lẽ sau đây:
Về khách quan:
Điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế khó lớn hơn, nhiều hơn so với thuận lợi. Trên tất cả các yếu tố về địa lý tự nhiên nếu so sánh Nghệ An với Thanh Hóa - Hà Tĩnh thì hầu như không có "lợi thế so sánh" nào rõ rệt (trừ diện tích lớn hơn và có vùng đất đỏ bazan).
Điều kiện xã hội (hay môi trường xã hội) do lịch sử để lại không mấy "thuận" để phát triển kinh tế hàng hóa lớn, kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế "mở", hội nhập,… Nói cách khác, Nghệ An bị "trôi" và tự "trôi" quá lâu, quá chặt trong nền sản xuất nhỏ tự túc tự cấp; trong kinh tế kế hoạch hóa, tập trung (mà ta hay nói là quan liêu bao cấp).
Điểm xuất phát của Nghệ An (và cả Thanh Hóa - Hà Tĩnh) thấp. Cơ sở hạ tầng (cả cứng và mềm) chưa đáp ứng được yêu cầu để phát triển nhanh, bền vững. Nguồn lực (tài chính) để đầu tư chủ yếu dựa vào ngân sách trung ương, dựa vào vốn đầu tư bên ngoài. Vốn đầu tư tại nội tỉnh (từ nguồn vốn trung ương đến ngân sách tỉnh) hạn hẹp.
Về chủ quan:
Ở mức độ nào đó, "ta" nhìn nhận "ta" hơi lệch giữa mạnh với yếu, giữa thuận lợi với không thuận lợi, giữa tích cực với hạn chế của điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và con người Nghệ An. Hơi quá nhấn mạnh điểm mạnh, điều thuận, mặt tích cực. Ngược lại hơi thiếu nhận ra những trở lực (có khi là vô hình) của điểm yếu, điều không thuận, mặt hạn chế. "Ta" nhìn nhận "ta" hơi lệch như trên dẫn đến một thực tế (trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành) là không quan tâm ở mức tối thiểu cần thiết tháo gỡ các rào cản những trở lực để tiến lên.
- Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Nghệ An chưa có khát vọng ở mức cần thiết để chiến thắng nghèo nàn - lạc hậu.
- Các nguyên nhân về đội ngũ cán bộ: "Người đứng đầu" tỉnh, huyện chưa thật tâm huyết với tỉnh, với huyện. Cán bộ người địa phương phần đông hướng về Hà Nội, về Vinh. Cán bộ trung ương "luân chuyển" về tỉnh, cán bộ tỉnh "luân chuyển" về huyện phần đông lo "tròn" để lại về trung ương, lại về tỉnh là chính. Còn lo gì cho tỉnh, cho huyện thì không rõ. Từ sau Đại hội đảng bộ tỉnh đến nay, "Người đứng đầu" tỉnh thay đổi quá nhanh, quá nhiều. Nhất là cán bộ do trung ương "luân chuyển" về (ở khía cạnh này theo tôi trung ương có một phần trách nhiệm).
Nghệ An không thiếu những chương trình, dự án,… để thúc đẩy phát triển về kinh tế - xã hội, càng không thiếu quy hoạch ngành, lãnh thổ, cây, con chủ lực,… Nhưng hiệu quả thực hiện các chương trình, dự án, quy hoạch,… ấy lại không như mong muốn. Có nhiều lý do, nhưng lý do chính là Nghệ An rất thiếu một đội ngũ cán bộ đồng bộ, đủ tâm, đủ trí để chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án, quy hoạch,... ấy. Nói cách khác khi xây dựng chương trình, dự án, quy hoạch ta mới chỉ đưa ra các giải pháp về cơ chế, về chính sách, về nguồn lực đầu tư mà không hề có giải pháp về đội ngũ cán bộ tương ứng và tương xứng.
Để khắc phục những hạn chế đó, theo tôi: Bằng nhiều cách thức để khơi dậy, nuôi dưỡng, và thổi bùng lên khát vọng Nghệ An trong khát vọng dân tộc.
Đã "mở", Nghệ An càng phải "mở" mạnh hơn, rộng hơn; cả mở lòng, mở tâm, mở trí. Mở để tự cởi trói. Mở để đưa vào thêm nhiều cái mới (thay cho cái cũ không còn phù hợp). Mở để hút thêm nguồn lực (hiểu theo nghĩa rộng) từ ngoài vào.
Xây dựng đội ngũ cán bộ (cán bộ hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất), tương ứng tương xứng (qua sử dụng, bồi dưỡng, đào tạo,…) với các chương trình, dự án… phát triển kinh tế - xã hội cho 5-10 năm tới ở phạm vi toàn tỉnh và cả ở phạm vi vùng miền.
5. Ông Nguyễn Khắc An - Hiệu trưởng Trường Trung học Kinh tế Kỹ thuật Vinh:
Mỗi khi chúng ta còn lấy sự tăng trưởng theo mô hình "Năm sau cao hơn năm trước" làm thỏa mãn thành tích thì lúc ấy danh hiệu tỉnh khá vẫn là một đích đến ngoài tầm
Theo cách hiểu thông dụng thì "khá" nằm trên mức trung bình, còn "khá nhất" chắc lại phải cao hơn một cấp độ nữa. Như vậy khi Bác nói "Nghệ An trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc" có lẽ là Bác đang muốn tỉnh nhà nằm trong tốp đầu. Từ cách suy luận như vậy, chúng ta có thể tạm phân chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, thực hiện lộ trình đi từ nghèo lên mức trung bình. Giai đoạn thứ hai, thực hiện lộ trình từ trung bình lên khá. Cuối cùng là thực hiện lộ trình từ khá lên nhóm khá nhất.
Trước hết xin được đặt câu hỏi rằng chúng ta đã "khá" được đến đâu? Nghệ An đang ở vị trí nào trên bản đồ kinh tế xã hội "miền Bắc"? Công bằng mà nói, những thập kỷ gần đây Nghệ An chúng ta đã có những bước tiến dài trên tất cả các lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm 2006 - 2010 đạt 9,75%. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 7,89%. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2015 - 2018 tương đương 8%/năm. Riêng năm 2019 (cũng là năm cao nhất) GRDP tăng trưởng đạt 9,03%; GRDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 43,08 triệu đồng. Như vậy trong vòng 15 năm lại nay kinh tế Nghệ An liên tục tăng trưởng khá, cao hơn mức trung bình cả nước. Đặc biệt cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng từ 77,62% năm 2018 lên 78,64% năm 2019; tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 22,38% năm 2018 xuống còn 21,36% năm 2019.
Bên cạnh kinh tế thì trên tất cả các lĩnh vực, trong các báo cáo đều thể hiện hết sức khả quan. Văn hóa xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. An ninh quốc phòng được giữ vững. Cải cách hành chính có nhiều tiến bộ… Theo báo cáo thì 27 trên 27 chỉ tiêu đề ra đều đạt và vượt. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đã vươn lên đứng thứ 19 cả nước. Rõ ràng đó là những điểm sáng tích cực cho bức tranh kinh tế xã hội tỉnh nhà. Chỉ tiếc duy nhất một điều: Nghệ An vẫn chưa trở thành tỉnh khá.
Lâu nay hình như người dân chúng ta chỉ nhắc đến sự tăng trưởng lạc quan của mình trong một trạng thái tĩnh. Nghĩa là đang so sánh chúng ta với chính chúng ta, quên mất rằng, trong lúc chúng ta lớn lên thì các địa phương khác cũng trưởng thành. Chúng ta so sánh trục dọc mà quên mất trục ngang. Mỗi khi chúng ta còn lấy sự tăng trưởng theo mô hình "Năm sau cao hơn năm trước" làm thỏa mãn thành tích thì lúc ấy danh hiệu tỉnh khá vẫn là một đích đến ngoài tầm. Thử một chút so sánh nhỏ thôi: Theo như báo cáo của tỉnh Hà Tĩnh tại phiên làm việc với Thủ tướng Chính phủ ngày 4/ 3/ 2020, thì năm 2019 Hà Tĩnh tăng trưởng gần 11%, đứng thứ 2 khu vực Bắc Trung bộ; quy mô nền kinh tế đạt gấp 1,5 lần so năm 2015; thu nhập bình quân đầu người đạt 62 triệu đồng/năm. Còn theo báo cáo được trình bày tại kỳ họp HĐND tỉnh Thanh Hóa thì năm 2019 tỉnh này có tốc độ tăng trưởng (GRDP) đạt tới 17,15%. Như vậy trong lúc chúng ta tăng trưởng 9% thì Hà Tĩnh 11% và Thanh Hóa 17%. Xét về tăng trưởng thì rõ ràng hai người hàng xóm của chúng ta "khá" hơn rất nhiều. Đấy là chưa so sánh với tốp đầu, nếu lấy (GRDP) bình quân đầu người của chúng ta (xấp xỉ 40 triệu) mà so sánh với tỉnh "khá nhất" của miền Bắc là Bắc Ninh (150 triệu) thì chúng ta mới chỉ bằng khoảng một phần tư thôi. Một khoảng cách quá xa trong lúc mình tiến lên thì các tỉnh bạn cũng không dừng lại "chờ".
Từ vài phép so sánh đơn giản trên đây cũng đủ cho chúng ta khẳng định, Nghệ An không thể trở thành tỉnh khá nếu không có những cú bứt phát thần kỳ. Rất tiếc đó là điều mà cả nỗ lực lẫn năng lực của chúng ta mấy chục năm qua đều chưa chạm đến điểm cuối cùng. Chúng ta vẫn thường nghe: "Nghệ An như một quốc gia thu nhỏ. Nghệ An có rất nhiều lợi thế, con người xứ Nghệ thông minh, cần cù, chịu thương chịu khó. Nghệ An có cảng biển, ga tàu, sân bay, bãi tắm, có cả di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại… Nghệ An là mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, là quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu...". Đó là cách chúng ta lâu nay nhìn về lợi thế. Lợi thế vô cùng quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định. Không bỏ hoang lợi thế, nhưng nếu ỷ lại vào lợi thế, coi lợi thế như bảo bối không phải con đường phẳng phiu để đi đến thành công. Chúng ta biết 70% lãnh thổ đất nước Israel là sa mạc, nhưng cũng 70% lượng nước sử dụng của đất nước này là đến từ nguồn tái chế. Nền nông nghiệp diệu kỳ của đất nước diệu kỳ Israel chống lại mọi lý thuyết về lợi thế. Tất nhiên rồi, chúng ta không phải là Israel bởi vì chúng ta có nhiều lợi thế hơn họ.
Tôi đã từng đọc đâu đó các văn bản nói về những tồn tại hạn chế, đại ý: "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng còn chậm, chưa phát huy được lợi thế, tiềm năng của từng vùng, chưa theo kịp sự biến động nhanh của thị trường trong và ngoài nước; nhiều tiềm năng chưa được khai thác tốt; trình độ công nghệ và năng lực tiếp nhận chuyển giao công nghệ nhìn chung còn yếu kém; hạ tầng kinh tế xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; quản lý quy hoạch chưa tốt; cải thiện môi trường thu hút đầu tư chuyển biến chậm; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu; cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính chưa đồng bộ…".
Chúng ta gọi tên các nhược điểm, nhưng lại thiếu phương pháp khắc phục nó. Biên độ của thay đổi đôi khi tùy thuộc vào biên độ của kỳ vọng. Một cuộc bứt phá ra khỏi cái tư duy "năm sau cao hơn năm trước" hình như vẫn đâu đó bên ngoài những giải pháp căn cơ. 10 chữ: "Khơi trong, hút ngoài, đoàn kết, tiến công, tăng tốc" là phát biểu của một đồng chí lãnh đạo tỉnh nhà cách đây tròn 18 năm. Nếu hôm nay ai đó nói lại câu này thì khả năng sai vẫn rất ít. "Khơi trong, hút ngoài" tức là khai thác lợi thế, "đoàn kết" là môi trường, "tiến công, tăng tốc" là quyết tâm chính trị. Gọi đúng rồi mà vẫn không "khá" lên được là tại sao? Mọi thành công vẫn từ con người. Câu chuyện "minh chủ" một lần nữa xin được nhắc đến. Chắc chắn cán bộ tỉnh nhà không hề bất tài, nhưng bất ổn định (theo nghĩa ổn định vị trí công tác). Để có được một Đà Nẵng đáng sống như hôm nay thì lãnh đạo ở đó là đồng chí Nguyễn Bá Thanh nhận nhiệm vụ chủ tịch năm 1996 và rời Đà Nẵng với cương vị Bí thư năm 2013. Còn Nghệ An chúng ta thì lại khác. Những cán bộ có tâm có tài của tỉnh nhà lần lượt được TW điều động. Vinh dự cho tỉnh lớn bao nhiêu thì cũng thiệt thòi cho tỉnh nhiều bấy nhiêu. Hình như đã có một bài viết nào đó thống kê rằng 12 năm mà Nghệ An có tới 5 bí thư Tỉnh ủy. Và từ năm 2013 đến nay thì Nghệ An cũng đã có thêm ít nhất 2 đồng chí bí thư mới.
Đã hơn 50 năm Bác đi xa, tâm nguyện cuối cùng của Người vẫn còn nguyên vẹn đó. Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần xác định đây là món nợ có giá trị lớn lao mà không được phép gia hạn thêm nữa. Riêng cá nhân tôi thì mong sao trong vòng 10 năm tới, tức là trong thập kỷ những năm 20 của thế kỷ 21 này chúng ta trả được cả "gốc" lẫn "lãi". Hai nhiệm kỳ bứt tốc để rồi đến dịp kỷ niệm 140 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và nhân dân Nghệ An vinh dự báo công rằng đã hoàn thành tâm nguyện của Người.
Lần này các đồng chí chủ trì của tỉnh nhà còn rất trẻ, được Đảng bộ và nhân dân đặt rất nhiều kỳ vọng. Mong sao các đồng chí có đủ thời gian, tâm huyết viết tiếp hành trình dở dang mấy chục năm qua. Nghệ An có nhiều lợi thế, nhưng giá trị nhất vẫn là tố chất con người. Sống dậy tiềm năng, hồi sinh sức mạnh, đổi mới giải pháp, trọng dụng nhân tài... Hãy thổi vào mỗi một người dân tinh thần bứt tốc để tăng trưởng. Chúng ta có đầy đủ sức mạnh nội sinh. Có lẽ cần một tinh thần cách mạng thực sự. Nếu quyết tâm chúng ta sẽ làm được, chúng ta sẽ đưa Nghệ An trở thành tỉnh "khá" mà không nhất thiết phải biến Nghệ An thành một tỉnh… khác.
6. Đại tá Nguyễn Khắc Thuần - Cựu chiến binh, nhà nghiên cứu Tp. Vinh:
Nhìn thẳng vào yếu, kém trong quản lý nhà nước về văn hóa để văn hóa thực sự là mục tiêu và động lực phát triển
Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã chỉ rõ: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quán triệt tư tưởng đó năm qua với quan điểm xuyên suốt: Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người mới, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đã được đại hội Đảng bộ tỉnh các nhiệm kỳ gần đây hết sức quan tâm, chú trọng và có nhiều biện pháp quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Nhờ vậy trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng chúng ta đã thu nhiều kết quả đáng kích lệ nhưng cũng bộc lộ nhiều yếu kém trong lãnh đạo chỉ đạo và tổ chức thực hiện, quản lý nhà nước về văn hóa dẫn đến môi trường văn hóa còn nhiều tồn tại bất cập. Cho nên với tinh thần "… ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất của miền Bắc" như lời Bác Hồ căn dặn 50 năm trước đã đến lúc chúng ta phải nhìn thẳng vào những hạn chế đó và tìm ra những giải pháp khắc phục khả thi.
Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An các nhiệm kỳ vừa qua đã chỉ ra những hạn chế về lĩnh vực văn hóa, khắc phục còn chậm, biện pháp chưa đúng tầm, quyết liệt việc xây dựng và phát triển văn hóa mới tiến hành chủ yếu trong lĩnh vực văn hóa chưa tác động sâu rộng gắn bó chặt chẽ với kinh tế và chính trị, các hoạt động kinh tế nhất là của khu vực ngoài nhà nước và các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thường ít hoặc chưa đạt được quan tâm đúng mức tới vai trò văn hóa trong phát triển. Nhiều dự án, chương trình phát triển kinh tế còn nặng về tính lợi ích kinh tế, coi nhẹ yếu tố văn hóa. Nền công nghiệp văn hóa phát triển còn chậm, hạ tầng kỹ thuật lạc hậu. Những thành tựu và tiến bộ đạt được về xây dựng đời sống văn hóa, con người văn hóa chưa tương xứng với phát triển và thiếu độ vững chắc. Những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống, "nhạt Đảng, phai đoàn, mờ chính trị" phai nhạt lý tưởng, ý chí, niềm tin còn khá phổ biến. Nhiều tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, cờ bạc, bói toán… có chiều hướng gia tăng. Thói giả dối, bệnh thành tích, chạy chọt đang có xu hướng lan rộng. Nhiệm vụ xây dựng con người mới Nghệ An trong thời kỳ CNH, HĐH chưa tạo được sự chuyển biến rõ rệt cả về thể chất và tinh thần. Hiện tượng coi thường luật pháp, bạo hành trong gia đình, trường học, bệnh viện, cách ứng xử văn hóa nơi công cộng nhất là văn hóa trong giao thông, văn hóa trong gián cách xã hội những ngày chống dịch Covid - 19 vừa qua đang làm nhức nhối xã hội. Môi trường văn hóa trên mạng Internet, các trang mạng xã hội, blog cá nhân đang tạo ra những giá trị văn hóa ảo độc hại, chi phối mạnh mẽ đời sống tinh thần của người dân, nhất là giới trẻ.
Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân nhưng quan trọng nhất thuộc về chủ quan đó là sự buông lỏng quản lý của không ít cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý và bảo vệ văn hóa, sự thiếu hụt nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa trong phát triển.
Từ những nhận thức trên vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa để văn hóa thực sự là mục tiêu và động lực tạo nên sự biến đổi to lớn trong đời sống xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội - quốc phòng - an ninh đất nước. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng cần phải có những giải pháp quyết liệt, đồng bộ, căn cơ hơn, hiệu quả hơn nhằm xây dựng con người Việt Nam, con người xứ Nghệ phát triển toàn diện trong một môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú.
Cho nên, cấp ủy, chính quyền các cấp, hệ thống chính trị trong tỉnh cần nhìn thẳng vào những hạn chế về văn hóa, cả trong lãnh đạo chỉ đạo và tổ chức thực hiện, tập trung khắc phục nhanh, triệt để những thiếu sót, hạn chế, xây dựng các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử mà điểm khởi đầu là văn hóa trong lãnh đạo quản lý, văn hóa kinh doanh, sản xuất, chuẩn mực về văn hóa ứng xử trên các lĩnh vực đời sống xã hội (giữa con người với con người, giữa con người và tự nhiên) trong đó văn hóa nêu gương là cốt lõi. Phải có những giải pháp mạnh, đồng bộ tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp cao, có đạo đức lối sống văn hóa trong thực thi công vụ, phòng chống tham nhũng hiệu quả.
Đã đến lúc chúng ta cần chú trọng hoàn thiện các thể chế nhằm khai thác tối đa hiệu quả kinh tế đối với các giá trị văn hóa, di sản văn hóa. Đầu tư thỏa đáng cả về nhân lực, vật lực nhằm bảo vệ, tôn tạo, nâng cao, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống xứ Nghệ, văn hóa các tộc người miền Tây Nghệ An. Quá trình xây dựng, thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án đầu tư cần phải đảm bảo lồng ghép và cân nhắc về phát triển bền vững nhất là văn hóa và môi trường, môi sinh. Kinh tế phát triển thì yếu tố văn hóa, hàm lượng văn hóa, nền công nghiệp văn hóa trong các hoạt động kinh tế-xã hội cần được nâng lên một cách đồng bộ tương xứng, hài hòa.
7. Ông Bùi Đình Sâm - Nguyên Phó trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An:
Nghệ An 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhận thức sâu sắc và những giải pháp mạnh mẽ, hiệu quả hơn
Bức thư đầu tiên (17/9/1945) và bức thư cuối cùng (21/7/1969) Người gửi cho quê hương Nghệ An, trong đó nêu ra một số nội dung chủ yếu:
Về đối tượng: Bác gửi cho hết thảy các tổ chức, cá nhân đồng chí, đồng bào, bộ đội, các giới, già, trẻ, gái, trai, tôn giáo, các lĩnh vực, các ngành,...
Về nội dung, gồm:
Những lời dặn dò, đặc biệt Bức thư cuối cùng (21/7/1969) là tâm niệm, lời chỉ dẫn, ước nguyện thiết tha, niềm tin tưởng lớn lao, tình cảm sâu đậm, nghĩa tình mà Người dành cho quê hương. Đây được coi như là bản Di chúc Người dành riêng cho quê hương.
Khẳng định truyền thống của quê hương, cần giữ gìn và phát huy, đồng thời Bác yêu cầu phải có kế hoạch, biện pháp để không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Bác vui mừng cổ vũ, động viên tỉnh nhà giành được nhiều thắng lợi, đồng thời Bác thẳng thắn chân tình phê bình những thiếu sót, khuyết điểm mắc phải. Đặc biệt, Bác dặn dò việc tăng cường đoàn kết (Bài nói chuyện Hội nghị đại biểu nhân dân Nghệ An 14/6/19567, Bác nhắc 12 lần chữ "đoàn kết"; Bài nói chuyện 15/6/1957 với cán bộ, đảng viên Hà Tĩnh, Bác nhắc chữ "đoàn kết": 10 lần) và phải thực hiện dân chủ rộng rãi với nhân dân; Quan tâm sâu sắc đến sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh nhà, các cụ phụ lão...; Không ngừng phát triển giáo dục, đào tạo và thường xuyên chăm sóc, bồi dưỡng cách mạng cho thế hệ trẻ; Phải chú ý thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô, tham nhũng; Mong muốn cho Nghệ An mau trở thành tỉnh kiểu mẫu. Bác viết: "Nghệ An là một tỉnh rộng lớn, có tài nguyên phong phú, có nhân dân cần cù lao động và rất cách mạng. Rất mong đồng bào và đồng chí tỉnh nhà ra sức phấn đấu làm cho Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất miền Bắc" (Trích Thư gửi Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Nghệ An, Hà Nội 21/7/1969).
Những mong muốn của Bác đã được các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra Nghị quyết, nhưng thực hiện chưa thành công. Mong muốn của Bác về Nghệ An "mau trở thành tỉnh khá của miền Bắc" chưa thành hiện thực, theo tôi có nhiều nguyên nhân, trong đó có:
Nghệ An chưa có sự phát triển đột phá về kinh tế, nhất là kinh tế đầu tư. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Nghệ An; Tuy có đường lối đúng, nhưng lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt, liên tục, thường xuyên. Lãnh đạo, nhất là người đứng đầu thường thay đổi (Trung bình hơn 2 năm/ 1 đồng chí). Điều đó làm cho sự liên tục, tâm huyết, thực hiện ý tưởng... bị gián đoạn dẫn đến hiệu quả không cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đại hội đề ra. Công nghiệp, xây dựng gặp nhiều khó khăn. Một số dự án triển khai còn chậm so với dự kiến.
Chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế về tự nhiên và con người Nghệ An trong và ngoài tỉnh. Năng lực làm việc của lãnh đạo, công, viên chức còn ở mức trung bình. Chỉ số cạnh tranh một số sản phẩm còn khiêm tốn.
Công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị còn bất cập, hạn chế.
Để thực hiện thành công tâm nguyện của Bác, trong thời gian tới Nghệ An cần có những giải pháp sau: Đảng bộ và nhân dân Nghệ An cần ý thức sâu sắc những lời căn dặn của Bác Hồ qua các thư, bài viết, bài nói của Người, đặc biệt là Bức thư ngày 21/7/1969. Tiếp tục thực hiện Thông báo 55 - TB/TW của BCT về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 26 của BCT, ngày 30/7/2013, về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Nghệ An đến năm 2020; Tạo sự đột phá về kinh tế nhất là kinh tế đầu tư (như Thanh Hóa, Hà Tĩnh); Chú trọng phát triển vùng sâu, vùng xa giảm hộ nghèo... bảo đảm giảm nghèo bền vững trên địa bàn toàn tỉnh; Phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh, coi trọng phát triển doanh nghiệp, tăng cường xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu lao động; Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, nhất là đối với một bộ phận cán bộ có chức có quyền, các lĩnh vực nhạy cảm: đất đai, tài chính.
Xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu gắn với Nghệ An, đủ thời gian trải nghiệm (ít nhất trọn 1 khóa). Thường xuyên giáo dục viên chức, công chức thực sự có phẩm chất, năng lực, gương. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
TÒA SOẠN
Chu Trọng Huyến
"Lúc này đã là trí thức yêu nước thì phải nhận trách nhiệm trước lịch sử".
Đó là câu đầu tiên Hồ Chủ tịch nói với Giáo sư Nguyễn Xiển khi ông được gặp Người.
Nguyễn Xiển sinh năm 1907 tại thành phố Vinh. Cụ nội rồi đến thân phụ của ông đều đỗ Cử nhân (Hán học). Hồi là học sinh Quốc học Vinh, Nguyễn Xiển rất giỏi Toán. Sau khi đỗ Thành chung, ông ra học ban Tú tài ở Trường Bưởi. Là một học sinh xuất sắc, ông được cấp bổng sang học tại Đại học Tuluzơ - Pháp. Về nước, Nguyễn Xiển làm công việc dạy học. Ông đã tham gia biểu tình chống lại việc nhà nước Bảo hộ vì họ trả lương cho giáo sư người Việt quá rẻ so với các ông thầy người Pháp. Sau đó, Nguyễn Xiển được chuyển sang làm việc ở ngành Khí tượng vì khi ở Pháp, ông đã học giỏi phần chuyên môn này. Với công việc ấy, ông có tiền lương gấp ba lần so với một giáo sư người bản xứ. Do vậy, ông càng thương các trí thức và nhân dân lao động nước mình. Bốn năm sau, ông được cử làm Trưởng đài Phủ Liễn (đặt ở tỉnh Kiến An) là cơ sở Thiên văn lớn nhất Đông Dương thời đó.
Về phần đất nước và dân tộc, qua một quá trình vận động cách mạng và đấu tranh vũ trang để đánh đuổi Nhật - Pháp tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, ngày 16/8/1945, Quốc dân đại hội họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 18/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở một số tỉnh tại Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Ngày 22/8/1945, Nguyễn Xiển cùng Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Huyên, Ngụy Như Kon Tum đánh điện vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị, để cho Việt Minh thành lập chính quyền tại Thừa Thiên, nhằm tránh nội chiến.
Thời gian còn ở chiến khu, Đảng ta đã vừa lãnh đạo đấu tranh giải phóng vừa lo bổ sung cán bộ có tâm, có tài vào bộ máy Nhà nước. Khi Ủy ban Dân tộc giải phóng đã về Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Xiển, một trí thức yêu nước được mời ra để tham gia vào Chính phủ lâm thời. Cụ Nguyễn Văn Tố bấy giờ là Bộ trưởng Bộ Cứu tế khuyên ông nên nhận phụ trách một bộ trong Chính phủ. Ông Nguyễn Xiển cảm ơn nhưng xin từ chối vì chỉ muốn hoạt động khoa học. Ông Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ biết thế đã mời Nguyễn Xiển đến gặp vào ngày 24/8/1945 và khuyên ông nhận làm Bộ trưởng Bộ Giao thông - Công chính vì ông Xiển đã đỗ bằng Cao đẳng thuộc ngành này tại Pháp. Nguyễn Xiển cũng không nhận mà tiến cử kỹ sư Đào Trọng Kim vào chức vụ ấy.
Biết được những thông tin đó, cụ Hồ Chí Minh mời Nguyễn Xiển đến gặp. Và Người đã nói với ông rằng: "Khắp nước có nhiều người vừa thoát nạn mù chữ nhưng cũng đã nhận nhiệm vụ mà họ chưa từng biết. Vậy mà vị Giám đốc Đài Thiên văn Phù Liễn hiện đại nhất Đông Nam Á lại cứ cho mình không biết làm việc hay sao. Lúc này đã là trí thức yêu nước thì phải nhận trách nhiệm trước lịch sử".
Về việc được tiếp kiến Hồ Chủ tịch, Nguyễn Xiển nói là, mãi tới lúc bấy giờ ông mới biết, Người đích thực là cụ Nguyễn Ái Quốc - nhân vật huyền thoại mà trước kia, ở trong quê, ông chỉ hình dung qua sự đồn đại của các nhà tri thức yêu nước và nhân dân lao động. Ông cũng chưa bao giờ được xem ảnh của Người, cho dù hồi học ở Trường Bưởi ông đã đọc các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc trên các sách báo do các bạn cùng tâm huyết bí mật chuyền tay cho nhau.
Và bấy giờ, khi được gặp, ông được nghe vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời nói rất ngắn gọn như vậy. Và Người bảo thêm: "Nếu chú không nhận làm Bộ trưởng thì phải làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Bắc bộ".
Nhà khoa học Nguyễn Xiển thưa là mình không có kinh nghiệm lãnh đạo. Nhưng Bác Hồ bảo là chú đã làm công chức trong bộ máy chuyên môn của Pháp nên có kinh nghiệm nhiều hơn một số anh em cách mạng. Vả lại, chú sẽ không phải làm việc một mình mà có một số cán bộ chính trị và chuyên môn giúp đỡ.
Nguyễn Xiển kể lại như vậy rồi nói: Trước những lý lẽ sáng suốt và giản dị ấy, trước thái độ tin cậy ấy, ông không còn lý do gì để từ chối nữa.
Hôm sau, ngày 28/8/1945, ngày mà Hà Tiên, tỉnh cuối cùng khởi nghĩa thắng lợi, kết thúc công việc giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám trên cả nước, là thời điểm chính quyền Cách mạng lâm thời đổi thành chính quyền Nhân dân. Ấy cũng là ngày Chính phủ ký quyết định thành lập Ủy ban Nhân dân Bắc bộ do Nguyễn Xiển làm Chủ tịch.
Mười ngày sau đó, Giáo sư Nguyễn Xiển trình lên vị Chủ tịch nước Bản kế hoạch hộ đê mới, vừa dễ có hiệu quả, vừa tiết kiệm được cho dân. Xem xong rồi gặp lại Giáo sư, Người cười, tin tưởng và nói vui: "Vị thầu khoán giúp dân chống lụt theo cách này là yêu nước".
Sau ngày Tổng tuyển cử, Giáo sư Nguyễn Xiển giữ các chức vụ: Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VIII, Bộ trưởng Bộ Cứu tế (nay là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Phó Chủ tịch Quốc hội từ khóa II đến khóa VII, Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam (từ năm 1956 cho đến khi đảng này hoàn thành nhiệm vụ và tuyên bố tự giải tán, 1988)… Bất cứ với cương vị công tác nào ông cũng hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ của mình.
Nhớ là ngày 22/2/1948, Giáo sư Nguyễn Xiển đã gửi thư lên cụ Hồ với lời nhận xét về những khuyết điểm trong đạo đức và tác phong công tác của một số cán bộ Mặt trận Việt Minh, Hồ Chủ tịch đã ghi ý kiến của mình vào bên lề của bức thư, rằng: "Việt (tức Hoàng Quốc Việt), những điều trong thư này không phải là quá đáng. Vậy, chú và chú Thọ (Lê Đức Thọ) phải cùng bàn và tìm cách sửa chữa ngay".
Vào buổi cuối đời, nhà khoa học Nguyễn Xiển tâm sự là ông "Một lòng thực sự kính, thương, tin tưởng Bác Hồ cả đời hy sinh vì dân vì nước, chân thành nhận khuyết điểm về Cải cách ruộng đất trước nhân dân để sửa chữa... Chỉ có lực lượng cách mạng của cụ Hồ mới đứng mũi chịu sào, đi đầu và làm nòng cốt trong cuộc đấu tranh phức tạp, trường kỳ gian khổ và anh dũng của dân tộc để chống ngoại xâm, giải phóng, thống nhất đất nước, kể cả với nông dân". Buổi sinh thời, Giáo sư Nguyễn Xiển thường nhắc lại rằng, Hồ Chủ tịch giao cho công việc gì, ông làm nấy, chẳng từ nan. Từ hàn đê, chống lũ lụt, dự báo thời tiết, dạy học và nghiên cứu phổ biến khoa học kỹ thuật… cho đến cứu tế xã hội, công tác mặt trận, quốc hội, đối ngoại. Vì Người đã nói với tinh thần: "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" 國 家 興 亡, 匹 夫 有 责. Một con người rất đỗi bình thường còn vậy, huống gì mình có được học hành, có được đoàn thể và nhân dân động viên, giúp đỡ!".
Nguyễn Xiển là đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VIII. Trong đó, có nhiều khóa, ông giữ cương vị Phó chủ tịch. Từ 1955 đến 1959, ông là Bộ trưởng Bộ Cứu tế - Xã hội. Từ 1960 -1976, ông làm Giám đốc Nha khí tượng - Thủy văn, Phó Chủ tịch Ủy ban Khoa học Nhà nước. Ông qua đời năm 1997, hưởng thọ 90 tuổi.
Ông được nhận nhiều giải thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Khoa học - Kỹ thuật.
Ngoài thành phố quê hương, tên của ông được đặt cho một con đường ở khu Trần Thành Ngọ, thị xã Kiến An, thành phố Hải Phòng và một quãng trên con đường vành đai Thanh Xuân, Hà Nội.
Nguyễn Thụy Phương
Cuộc khủng hoảng đa diện bắt đầu từ lĩnh vực sức khỏe - y tế này đã tác động nhanh đến kinh tế, tài chính, sản xuất và mọi mặt đời sống xã hội trên toàn cầu ở mức kỷ lục. Nhưng nó cũng khiến các chính phủ phải lựa chọn, đặt ra các giải pháp mới, mà có thể sẽ gây nên những hiệu ứng dây chuyền khác. Lúc này, các ngành KHXH&NV có thể giúp trả lời những câu hỏi gì?
Có lẽ đây cũng là cuộc khủng hoảng mà bên cạnh những tư vấn về y khoa thì tiếng nói của ngành KHXH&NV thực sự được lắng nghe và tham chiếu để đưa ra các quyết định chính sách phù hợp. Kể từ khi lệnh cách ly và phong tỏa ban ra ở các quốc gia, những bài xã luận, bình luận và phỏng vấn các nhà nghiên cứu KHXH&NV (sử học, xã hội học, nhân chủng học, tâm lý học, kinh tế học, truyền thông…) lại xuất hiện đều đặn mỗi ngày trên các phương tiện truyền thông toàn cầu (Lidewij Edelkoort, chuyên gia dự đoán xu hướng (trend forecaster) người Hà Lan, Yuval Noah Harari, nhà sử học người Israel, nhà xã hội học và triết học người Pháp Dominique Méda, kinh tế gia người Pháp Thomas Piketty...). Đài báo giúp độc giả đọc và phân tích lại những công trình của ngành nhân chủng học để nhìn nhận lại tiến trình lịch sử nhân loại gắn mốc với những đại dịch, như Claude Lévi-Strauss về mối liên hệ giữa loài người và động vật gây nên dịch bệnh, Frédéric Keck và James Scott về mặt trái của các nền văn minh và toàn cầu hóa gây ra đại dịch…
Trong bối cảnh không đề phòng và chuẩn bị trước đại dịch này, một trong các biện pháp nước Pháp thi hành ngay là thiết lập một ủy ban khoa học (gồm 11 chuyên gia, bác sỹ và nhà nghiên cứu) cố vấn cho Tổng thống, Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Y tế. Lần đầu tiên, tại Pháp, KHXH&NV với đặc điểm đa và liên ngành được huy động để tham gia trận chiến này trong việc nhận định, đánh giá, phân tích, hướng dẫn và khuyến cáo các cơ quan công quyền trong việc xử lý khủng hoảng.
Ứng phó và quyết định trong tình huống chưa từng có tiền lệ
Chưa bao giờ số lượng người mắc dịch tăng mạnh, số lượng người tử vong tăng nhanh, chưa bao giờ có tình trạng cả một quốc gia hay nhiều thành phố của một quốc gia bị phong tỏa, nhiều biên giới quốc gia bị chặn cả đường bộ lẫn hàng không, chưa khi nào toàn bộ hệ thống trường học toàn quốc khép cổng, cũng chưa từng toàn bộ cơ quan công sở đóng cửa, cũng chưa từng xảy ra tình huống làm việc từ xa lên đến hàng chục triệu người…
Trong bối cảnh của những "chưa từng có tiền lệ" này, chính phủ và các thiết chế công quyền tại Pháp đồng lòng chung sức với các nhà khoa học. Nhưng mỗi bên phải giữ đúng vai trò của mình, tạo nên một phân giới giữa quyết định chính trị và chuyên môn khoa học, như vậy mới giữ được sự độc lập của khoa học và tính trách nhiệm của chính trị.
KHXH&NV đóng góp như thế nào?
Tuy nhiên, cùng với sức khỏe cộng đồng thì hàng loạt các vấn đề xã hội như liên kết xã hội, bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc, môi trường sinh thái, chính trị, quản trị, tín ngưỡng, lãnh thổ, lưu thông kinh tế... tức là gần như toàn bộ mọi mặt hoạt động của xã hội đang bị con virus này tác động và chất vấn. Và chỉ có các ngành KHXH&NV mới có thể đưa ra các kịch bản, tình huống, phân tích lẽ thiệt hơn, đánh giá tác động tới các nhóm để tư vấn cho chính phủ.
Cách ly và phong tỏa diện rộng đang và sẽ tác động đến vấn đề tâm lý và tinh thần của toàn dân từ trẻ nhỏ đến người già: gây ra stress, lo lắng, sợ hãi, hoảng loạn…, tùy mức độ nặng nhẹ ở từng cá nhân. Tử vong nhanh và nhiều, ban đầu là những người vốn mắc bệnh, giờ đến cả người trẻ khỏe, khiến cho vấn đề tín ngưỡng, tâm linh và tôn giáo cũng cần được lưu tâm khi đại dịch đi qua. Còn ở trong cơn dịch thì việc cấp bách hơn là xử lý thi thể ra sao với dân sự (nhà lễ tang), quân đội (vận chuyển) và cả các nghi lễ tang (hỏa táng hay chôn cất)…
Nếu như các bác sỹ nói rằng phong tỏa là chiến thuật để ngăn chặn dịch thì các nhà xã hội học và tâm lý học lên tiếng ở phương diện khác về các hệ quả của chiến thuật này để chính phủ có cái nhìn toàn cảnh, điều chỉnh chính sách sao cho giảm bớt các hệ quả không đáng có. Phong tỏa là cần thiết nhằm chặn đứng Covid-19 nhưng cũng làm tăng lên bất bình đẳng xã hội giữa các tầng lớp dân chúng, tăng nguy cơ cho những người yếu thế (phụ nữ bị bạo hành, người khuyết tật, vô gia cư, người già cô đơn, người nhập cư hay tù nhân…). Ngoài ra, bất bình đẳng không như nhau ở mỗi độ tuổi, mỗi giai tầng hay mỗi địa bàn sống. Vì vậy, các nhà xã hội học phải phân tích được sự tiếp nhận và phản ứng với Covid-19 ở trong dân chúng, về việc tán thành - tuân thủ hay không của họ trước các biện pháp của chính phủ. Các nhà khoa học xã hội cũng phải tính đến hệ quả tâm lý của các biện pháp đó. Ví dụ, hệ quả của phong tỏa sẽ như thế nào với mỗi cá nhân (đến tâm lý và công việc…), gia đình (trông trẻ, dạy trẻ, chơi với trẻ, trẻ nhỏ cũng khác với trẻ đang lớn…), các nhóm nghề nghiệp (y tế, tài chính, giao thông, dịch vụ…), quần chúng (tương trợ - đoàn kết láng giềng, giữa các thế hệ hay liên kết xã hội…). Từ đó để "đánh động" nhà cầm quyền trước khi những quyết định chính trị được ban ra: rằng biện pháp này hay biện pháp kia sẽ tác động đến từng bộ phận trong xã hội như thế nào?
Trong trận đại dịch này nhiều phân tích của các nhà khoa học xã hội đã chỉ ra đây có thể là "thời cơ" ra đời rất nhiều giải pháp kiểm soát người dân nhân danh kiểm soát dịch bệnh, là cái cớ để các chính quyền tăng cường giám sát người dân.
Đối với nhà xã hội học Antonio Casilli, việc phong tỏa này tác động hoàn toàn trái ngược nhau ở hai đối tượng lao động: những người làm việc tại gia và những người làm việc tại chỗ (thu ngân hay giao hàng…). Bất bình đẳng rất rõ khi một bên bạn thuộc tầng lớp trung lưu, có nguồn tài chính vững, căn hộ rộng 120m² ở thủ đô, hoặc có thêm ngôi nhà thứ hai ở nông thôn, vườn rộng 500m², thì làm việc tại gia với điện thoại smartphone và máy tính xách tay lại trở thành khoảng thời gian rút lui và giãn cách khỏi đời sống xã hội (social disconnection), giải trí và thư giãn bên người thân. Nhưng bên kia, nếu bạn thuộc tầng lớp bình dân, làm những nghề nằm ở cuối dây chuyền sản xuất và cung ứng (last miles jobs) như bán hàng, giao hàng, vận chuyển hàng thì trong tình cảnh này họ vẫn phải đi làm, khả năng lây và truyền bệnh vừa dễ vừa nhanh. Từ vài năm trở lại đây, đặc thù công việc đã biến họ trở thành người lao động tự do bấp bênh, bị "Uber hóa". Giới công đoàn đã cảnh báo những tình huống thảm kịch có thể rơi vào đầu những người lao động này nếu mất việc, hết lương, không được hưởng quyền lợi của người lao động bình thường.
Đây là lần đầu tiên 43% dân số toàn cầu (7,8 tỉ dân) bị "giam lỏng" tại nhà. Đặc điểm căn bản nhất là sự cách ly nhóm, tức là theo từng hộ gia đình. Theo nhà triết học Olivier Remaud, sự cách ly này bắt buộc các thành viên phải thiết lập một trật tự mới, phải biết tương tác và có khả năng thương lượng. Tôn trọng, độ lượng và tương trợ là những tiêu chí cần có để duy trì sự chung sống khép kín sao cho êm ấm trong nhiều tuần. Nếu không, chỉ nêu ra ví dụ sau là chúng ta có thể thấy bất bình đẳng giới và bất bình đẳng xã hội đè nặng lên vai người phụ nữ. Phụ nữ vừa phải làm việc tại gia, vừa phải chăm con, cho con học bài, chợ búa, cơm nước… thì quãng thời gian cách ly này quả là cực hình. Sau tuần đầu tiên phong toả, các tổ chức nữ quyền ở Pháp cho biết tình trạng phụ nữ bị chồng đánh tăng 34%. Chính phủ đã chỉ thị hiệu thuốc (thay vì cảnh sát như mọi khi) tiếp nhận phụ nữ bị hành hung.
Theo nhà tâm lý học Catherine Tourette-Turgis, "cách ly lên quá 10 ngày có thể gây ra những hội chứng stress hậu chấn thương", nghĩa là nó có thể biểu hiện thành những căng thẳng, lo lắng, chán nản, mất ngủ, rối loạn tiêu hóa, nghiện… Lúc đó, chúng ta cần được chăm sóc sức khỏe tinh thần nhờ bác sỹ tâm lý hoặc những trợ giúp xã hội trong và sau thời kỳ cách ly. Bản thân xã hội cũng điều chế ra "kháng thể" cho chính mình - cơ chế tự điều chỉnh để vượt qua khủng hoảng bằng tinh thần đoàn kết và tương trợ láng giềng và liên thế hệ. Các nhà sử học, nhân loại học, xã hội học, tâm lý học, kinh tế học với những chuyên ngành hẹp như xử lý và quản trị trong khủng hoảng, nhân đạo, tâm lý học đám đông, quản trị thiết chế, được huy động để lý giải và tìm ra giải pháp thoát khủng hoảng.
Hậu đại dịch: Điều gì sẽ tới?
Khi đại dịch đi qua, cơn stress kinh tế sẽ phủ ngay lên đầu tất cả chúng ta, từ người đi làm đến các ông chủ: phải lấy lại tiền, lợi nhuận, công suất đã bị giảm sụt hay mất đi trong nhiều tuần. Lúc đó, KHXH&NV, đặc biệt những chuyên ngành kinh tế học, chính trị học, truyền thông..., phải tiếp tục truy vấn và tư duy lại toàn bộ hệ thống để đối mặt với những cuộc khủng hoảng mới.
Phục hồi kinh tế là việc ưu tiên số một của các chính phủ khi đại dịch kết thúc. Chỉ riêng với nước Pháp, và chỉ tính riêng hai lĩnh vực, công nghiệp sản xuất ô tô và công nghiệp dược phẩm phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc. Theo nhà kinh tế học Thomas Piketty, đại dịch đi qua sẽ là lúc phải tìm ra những tiêu chí mới cho nền quản trị kinh tế toàn cầu. Sự phụ thuộc vào nguồn - nơi sản xuất, chuỗi vận chuyển hàng hóa, phương thức tiêu thụ buộc chúng ta phải nghĩ đến việc tái công nghiệp hóa, giải toàn cầu hóa (deglobalization) và tái lãnh thổ hóa dây chuyền sản xuất. Tiêu dùng và thói quen tiêu dùng cũng phải thay đổi, chí ít như mua và tiêu thụ sản phẩm địa phương, tại chỗ, hạn chế tiêu thụ đại trà. Sản xuất và tiêu dùng phải được đặt trong mối tương quan với môi trường và sinh thái. Công nghệ và truyền thông cũng sẽ thay đổi diện mạo và bước vào kỷ nguyên mới của riêng mình sau đại dịch Covid-19. Làm việc từ xa chắc chắn không còn là thể nghiệm mà trở nên đại trà và tạo nên thói quen làm việc mới. Giáo dục trực tuyến cũng sẽ được dân chủ hóa.
Nhiều năm trở lại đây, các nước dân chủ phương Tây phải đối mặt liên tục với khủng bố, xử lý khủng hoảng và tình thế cấp bách nên các chính phủ thiết chặt các quyền công dân và tăng quyền kiểm soát của công quyền. Giới trí thức và luật pháp nhìn thấy rõ những mối nguy về nhân quyền và dân chủ trong các biện pháp này vì nhà nước có thể viện cớ "chống khủng bố" hay "giải quyết khủng hoảng" để nhắm vào mục đích khác. Trong trận đại dịch này, nhiều phân tích của các nhà khoa học xã hội càng cho thấy nguy cơ đó rõ ràng hơn bao giờ hết. Như Harari đã chỉ ra, đây có thể là "thời cơ" ra đời rất nhiều giải pháp kiểm soát người dân nhân danh kiểm soát dịch bệnh, là cái cớ để các chính quyền tăng cường giám sát người dân. Do đó, để cứu lấy cái sinh thể xã hội thì quyền tranh luận, phản biện và tố giác của mọi công dân phải luôn được duy trì.
Các chính phủ, trong đại họa virus này, đều đang thấm thía một điều: phải đầu tư tài chính và cơ sở vật chất cho nền y tế công và nghiên cứu khoa học cơ bản. Nhưng nghiên cứu, không có nghĩa là chỉ hiểu được độc lực mạnh yếu của con virus mà còn phải hiểu được chính cái sinh thể xã hội này và hành vi con người, phải có cái nhìn toàn diện về xã hội. Đây không thể bị coi là hai ngành dịch vụ hay ngành sản xuất buộc phải đem lại kết quả tức thì và vì lợi ích trước mắt. Nếu không, nhân loại sẽ phải đối mặt với đại họa mới mang tính toàn cầu mà nhiều nhà khoa học đã dự báo trước: thảm họa khí hậu, hạn hán, cháy rừng, ngập lụt, hung bạo cũng không kém gì một con virus.
Nếu thiếu nghiên cứu để rút ra các bài học quản lý, loài người sẽ "lỡ hẹn" tiếp với Lịch sử!
Paris, tháng 3/2020
(Theo Tạp chí Tia sáng)
Ý kiến bạn đọc