Thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông lâm, thủy sản tỉnh Nghệ An
Thứ tư - 27/10/2021 21:143900
Sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tỉnh Nghệ An giai đoạn 2015-2020 có mức tăng trưởng khá. ...
Sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tỉnh Nghệ An giai đoạn 2015-2020 có mức tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất (theo giá SS 2010) năm 2015 đạt 28.354 tỷ đồng, đến năm 2020 đạt 36.199 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 5%/năm. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh khai thác tiềm năng, lợi thế của ngành lâm nghiệp và thủy sản: Tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp thuần giảm từ 81,17% năm 2015, còn 77,07% năm 2020 (trong lĩnh vực nông nghiệp thuần có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng dần tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ); tỷ trọng giá trị sản xuất lâm nghiệp chiếm 6,29% năm 2015 và đạt 8,64% năm 2020; tỷ trọng giá trị sản xuất thủy sản tăng từ 12,54% năm 2015 và đạt 14,29% năm 2020.
Hầu hết các mặt hàng nông lâm, thủy sản đều tăng cả về số lượng và giá trị so với các lĩnh vực khác. Tuy vậy, sức cạnh tranh của nhóm sản phẩm nông lâm nghiệp, thủy sản vẫn chưa cao, hàng nông lâm thủy sản sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao, nguồn nguyên liệu phân tán, một số nguyên liệu còn phải nhập từ tỉnh khác về, độ đồng nhất của nguyên liệu thấp... Giai đoạn 2015-2020 các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã xuất bán sang thị trường nước ngoài trên 20 mặt hàng, nhóm mặt hàng các loại. Tổng giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng đều qua các năm trong năm 2015 đạt 226 triệu USD, năm 2019 đạt 319 triệu USD và năm 2020 đạt 261 triệu USD. Năm 2020 do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nên kim ngạch xuất khẩu của ngành giảm. Tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm, thủy sản giai đoạn 2015-2020 đạt 2,9%/năm, một số mặt hàng nông, lâm thủy sản có kim ngạch xuất khẩu lớn. Sản phẩm gỗ, sản phẩm gỗ và dăm gỗ, năm 2015 xuất khẩu đạt 133,8 triệu USD, năm 2020 đạt 143,9 triệu USD, bình quân giai đoạn 2015-2020 tăng trưởng đạt 1,46%/năm và đóng góg tỷ trọng 49,46% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản. Dăm gỗ vẫn là mặt hàng xuất khẩu luôn giữ vị trí hàng đầu trong những năm qua. Thị trường xuất khẩu gỗ, sản phẩm gỗ (ván sàn, gỗ xẻ sơ chế, gỗ tròn tái xuất) xuất sang thị trường các nước, như: Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Đài Loan, Indonesia, Thái Lan, Hàn Quốc, Ai Cập và Ấn Độ, còn dăm gỗ chủ yếu vẫn là Trung Quốc. Sản phẩm hoa quả tươi và các sản phẩm chế biến từ hoa quả xuất khẩu năm 2015 đạt 18,8 triệu USD, chủ yếu là các sản phẩm chế biến từ hoa quả; đến năm 2020 chỉ đạt 42,8 triệu USD. Giai đoạn 2015-2020 tốc độ tăng trưởng đạt 42,12%/năm và đóng góp 27,79% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thủy sản. Đối với hoa quả tươi là mặt hàng mới được xuất khẩu từ năm 2017, cùng với các sản phẩm chế biến từ hoa quả đã đưa mặt hàng này nhanh chóng chiếm đứng thứ hai. Thị trường xuất khẩu chính Trung Quốc, Hà Lan. Sản phẩm sắn và tinh bột sắn xuất khẩu năm 2015 đạt 47,2 triệu USD, năm 2020 đạt 19 triệu USD, giai đoạn 2015-2020 tốc độ tăng trưởng giảm và đóng góp 9,79% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thủy sản. Thị trường xuất khẩu 9 nước, gồm: Trung Quốc, Ả Rập, Malaysia, Ấn Độ, Gambia, Fiji, Senegan, Li Băng và Srilance.
Xuất khẩu thủy hải sản năm 2015 đạt 15,9 triệu USD, năm 2020 đạt 28,1 triệu USD; giai đoạn 2015-2020 tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt 12,08%/năm và đóng góp 7,34% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thủy sản. Thị trường xuất khẩu, gồm: Trung Quốc, Lào, Hàn Quốc và Srilanca. Trong đó mặt hàng tôm được xuất khẩu chủ yếu thông qua các doanh nghiệp ngoài tỉnh chiếm khoảng 80% sản lượng tôm nuôi hàng năm. Xuất khẩu chè toàn tỉnh năm 2015 đạt 5,8 triệu USD, năm 2020 đạt 4,67 triệu USD; giai đoạn 2015-2020 tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giảm và đóng góp 2,49% tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm, thủy sản. Thị trường xuất khẩu chủ yếu như: Apghanistan, Pakistan, Ấn Độ, Trung Quốc, Anh, Ba Lan. Ngoài ra còn nhiều mặt hàng khác như: Gạo, lạc nhân, đường kính, bơ sữa, gừng, tỏi khô... cũng đã xuất sang các nước trong khu vực./. Thái Anh