Theo PGS Donald Scott Kemiss, khi người nghiên cứu hiểu rõ nhu cầu sáng chế và chứng minh được giá trị đem lại cho doanh nghiệp, kết quả nghiên cứu của họ sẽ dễ dàng thương mại hóa.
Nhiệm vụ thúc đẩy thị trường khoa học công nghệ đồng bộ, giải pháp để viện trường tham gia hợp tác với doanh nghiệp là vấn đề trọng tâm được Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt và nhiều chuyên gia nêu tại hội thảo về kinh nghiệm quốc tế trong hợp tác viện, trường và doanh nghiệp, thương mại hoá kết quả nghiên cứu tài sản trí tuệ, tổ chức sáng 1/11 tại Hà Nội.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt phát biểu khai mạc tại Hội thảo. Ảnh: Hoàng Hiếu
Theo Bộ trưởng, một thị trường khoa học công nghệ phát triển mạnh sẽ góp phần tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ông mong muốn các nhà khoa học, chuyên gia đề xuất ý kiến, tháo gỡ các vướng mắc để kết hợp hài hoà mục tiêu kinh tế xã hội và mục tiêu khoa học công nghệ trong các đề án phát triển, tạo động lực tăng trưởng mới.
Bên cạnh việc xây dựng chính sách, một trong các giải pháp đang được Bộ Khoa học và Công nghệ hợp tác với Australia tiếp thu bài học trong thúc đẩy phát triển thị trường khoa học công nghệ, thúc đẩy sáng chế.
Doanh nghiệp và nhà nghiên cứu cần hiểu nhau
Theo PGS Donald Scott Kemiss, chuyên gia về chính sách thương mại hoá kết quả nghiên cứu của chương trình Aus4innovation, thương mại hoá kết quả nghiên cứu, sáng chế là con đường mà nhiều quốc gia mong muốn. Một số nước như Mỹ, Trung Quốc, Australia... rất chú trọng vào các chương trình thương mại hoá. Tuy nhiên, số lượng sáng chế tăng, chất lượng ứng dụng lại chưa tương xứng. "Hầu hết các doanh nghiệp tìm hiểu công nghệ qua mạng và mối quan hệ, nhưng giao dịch các mặt hàng khoa học công nghệ không giống sắm một đôi giày", PGS Kemiss nói.
Theo ông, "doanh nghiệp và nhà nghiên cứu cần phải hiểu nhau". Tức là, các trường đại học cần tiếp cận được khả năng thương mại hoá, nắm được nhu cầu của doanh nghiệp, tìm hiểu họ có cần các sáng chế đó hay không và sử dụng kết quả như thế nào. Doanh nghiệp cũng cần đánh giá công nghệ khả thi, đầu tư vào bằng sáng chế có tiềm năng nhất và giá trị đem lại là gì.
Ông cho biết một số quốc gia đã xây dựng các chính sách "khuyến công nghệ" nhằm tạo cơ hội trao đổi, tìm hiểu giữa các doanh nghiệp, viện trường và các đơn vị chuyển giao thông qua tổ chức trung gian làm cầu nối thông tin. Hoạt động này giúp doanh nghiệp phân tích rõ nhu cầu và khả năng thương mại, trong khi việc tạo nên cung cầu đồng bộ kết hợp sở hữu trí tuệ cho phép trường đại học giữ được lợi nhuận, tạo không gian nghiên cứu, phát triển.
Một số ý kiến tại hội thảo cũng cho rằng, các nghiên cứu đáp ứng đúng nhu cầu với doanh nghiệp sẽ giúp bước vào chuỗi cung ứng. Theo PGS.TS Vũ Văn Tích, Đại học Quốc gia Hà Nội, các doanh nghiệp chưa quan tâm đặt hàng công nghệ, trong khi các nhà khoa học nghiên cứu chưa gắn với thị trường.
Ông gợi ý doanh nghiệp đặt hàng nhà khoa học và chính phủ có cơ chế thí điểm đầu tư vào công đoạn cuối cho xuất khẩu hàng hoá cho doanh nghiệp. Phía trường đại học cũng kết hợp với doanh nghiệp địa phương cùng triển khai tạo sản phẩm phát triển nhân lực công nghệ cao.
Trao tự chủ cho các đơn vị nghiên cứu
GS Trần Đức Viên, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, dẫn số liệu ở Việt Nam chỉ 4% trường đại học hợp tác nghiên cứu với các doanh nghiệp, 29% có hợp tác đào tạo, giảng dạy, đa số giải quyết vấn đề trước mắt của doanh nghiệp. "Rất ít doanh nghiệp liên kết trực tiếp với viện, trường đại học trong xác định chiến lược dài hạn", ông nói. Trong khi đó thị trường hình thành cần dựa trên các "mặt hàng".
Ông chia sẻ kinh nghiệm từ Phòng thí nghiệm sinh học phân tử Cambridge (Anh), nơi có tới 6 nhà khoa học đoạt giải Nobel, với bí quyết thành công là tự do nghiên cứu, phi hành chính hoá, quản lý tài chính hiệu quả và quốc tế hoá lao động. Viện nghiên cứu thành lập nhiều công ty spin-off, nhờ đó 5 năm vừa qua giúp thu về 700 triệu bảng Anh từ các chuyển giao, đặt hàng tới các doanh nghiệp. "Trong khi tiền chính phủ Anh cấp khoảng 170 triệu bảng Anh, tức là số tiền thương mại hoá được gấp 4-5 lần tiền chính phủ cấp", ông nói. Việc đầu tiên cần hướng tới là thể chế, tự do học thuật, sáng taọ.
GS Viên đề xuất giao quyền tự chủ thực chất cho các đơn vị nghiên cứu, trong đó cần độc lập tự chủ mô hình quản trị phương thức hoạt động, nhân sự và tự chủ tài chính, đầu tư. "Nếu dựa trên 3 trụ cột gồm thể chế, đầu tư, giao quyền sẽ giúp khoa học công nghệ trở thành động lực, đóng góp cho sự phát triển kinh tế nước nhà", ông nói.
TS Hoàng Xuân Hiệp, Hiệp hội Dệt may Việt Nam chia sẻ câu chuyện thực tế về thị trường từ chính doanh nghiệp của mình. Ông cho biết một năm công ty xuất khẩu 5,6 tỷ USD mặt hàng sợi nhưng phải nhập gần 3 tỷ USD sợi nguyên liệu để làm được. Bài toán doanh nghiệp cần chính là công nghệ xử lý nhằm giảm chi phí việc nhập khẩu. "Thực tế, doanh nghiệp biết 'cầu' nhưng chưa biết cách đưa lên đâu để giải quyết vấn đề đó", TS Hiệp nói.
Ông đề xuất chính sách như hỗ trợ doanh nghiệp tham gia nghiên cứu sẽ được giảm thuế, lãi suất hay tiếp cận giải pháp công nghệ nhằm thúc đẩy cầu phía doanh nghiệp đưa nghiên cứu vào ứng dụng.
GS Trần Đức Viên cũng cho rằng nên thí điểm khoán sản phẩm cuối cùng, đặt hàng giao nhiệm vụ theo tiềm lực thế mạnh đơn vị, nhóm tác giả và giảm thủ tục hành chính để hỗ trợ các nhà khoa học. Theo ông cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các trường, dựa trên chỉ số kết quả đầu ra, xây dựng xếp hạng đánh giá các trường đại học, trong đó có các nghiên cứu doanh nghiệp có thể ứng dụng.
Như Quỳnh
Ý kiến bạn đọc