Tỷ lệ nhiễm human papillomavirus (HPV) ở phụ nữ đã lập gia đình tại tỉnh Nghệ An năm 2020
Ung thư cổ tử cung (UTCTC)...
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là nguyên nhân phổ biến thứ tư trong các trường hợp mới mắc và tử vong hằng năm do các bệnh lý ung thư ở phụ nữ, chiếm lần lượt 6,5% và 7,7% các trường hợp mắc mới và tử vong do bệnh lý ung thư. Theo tổ chức Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IRAC, 2020), hơn 604.127 phụ nữ được chẩn đoán mới mắc và 341.831 trường hợp tử vong do bệnh lý này. Báo cáo GLOBOCAN, 2020 của IRAC, Việt Nam có 4.132 phụ nữ được chẩn đoán mắc UTCTC và 2.223 trường hợp tử vong do bệnh lý này. Vừa qua, Bệnh viên Đa khoa Tây Bắc tỉnh Nghệ An đã triển khai thực hiện đề tài Nghiên cứu đánh giá thực trạng nhiễm khuẩn Human Papilloma Virus (HPV) và các yếu tố nguy cơ trên phụ nữ được tầm soát tổn thương cổ tử cung, đề xuất giải pháp phòng ngừa trên địa bàn tỉnh Nghệ An” do BSCKII. Tăng Việt Hà làm chủ nhiệm.
Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu xác định tỷ lệ nhiễm Human Papillomavirus (HPV) và định týp HPV nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung dựa trên kỹ thuật realtime PCR ở phụ nữ đã lập gia đình trong độ tuổi từ 19 - 60 tuổi tại tỉnh Nghệ An. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 1200 đối tượng tại thành phố Vinh và 3 huyện của tỉnh Nghệ An từ tháng 06 năm 2019 đến tháng 12 năm 2020. Mẫu nhiễm Human Papillomavirus được xác định bằng Kit LightPower NAHPV PCR (Việt Á), các mẫu dương tính sau đó được định týp bằng kit HPV genotype 14 Real - TM Quant (Sacase-Ý). Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV là 6,25% (KTC 95%: 4,88% - 7,62%), trong đó thành phố là 6,93%; nông thôn là 4,67%; trung du, miền núi là 6,04% và 7,32% ở miền núi cao. Nghiên cứu ghi nhận 14 týp HPV-DNA khác nhau; 100% các týp đều thuộc nhóm nguy cơ cao và phổ biến nhất là các týp 16, 52, 18 và 58. Tỷ lệ nhiễm 1 týp là 68,5% và đồng nhiễm chiếm trên 31,5%. Tỷ lệ nhiễm HPV ở phụ nữ tại Nghệ An là 6,25% và có ở tất cả các khu vực sinh thái khác nhau.
Qua nghiên cứu cho thấy. nhiễm Human papillomavirus (HPV) là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến UTCTC ở phụ nữ đã được chứng minh trong y văn. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nhiễm các týp HPV nguy cơ cao có liên quan chặt chẽ với sự phát triển của UTCTC, ước tính có 630.000 trường hợp nhiễm mới HPV có liên quan với ung thư xảy ra ở phụ nữ năm 2012, trong đó 530.000 (84%) là UTCTC, và là nguyên nhân tử vong của 266 000 phụ nữ trên thế giới [9]. Chính vì vậy, nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HPV có đóng vai trò quan trọng cung cấp các bằng chứng thực trạng và xây dựng các chiến lược dự phòng phù hợp, thực tế tại địa phương. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu trên 1200 phụ nữ đã lập gia đình từ 19 - 59 tuổi tại thành phố Vinh và 3 huyện của tỉnh Nghệ An, kết quả cho thấy 6,25% (KTC 95%: 4,88-7,62), đối tượng nhiễm HVP dựa trên phân tích realtime PCR. Tỷ lệ nhiễm HPV là không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các vùng miền của tỉnh Nghệ An (Bảng 2). Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu tại thành phố Hà Nội (2011) là 5,7% [5], tuy nhiên thấp hơn so với nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh là 12% [10]; Đắk Lắk là 11,8%; hay tại Tiền Giang là 11,7%. So với nghiên cứu tại Thừa Thiên Huế (0,9%) [1] hay tại Cần Thơ (4,1%) [13] thì tỷ lệ nhiễm HPV tại Nghệ An cao hơn. Một nghiên cứu đa vùng miền tại Thái Nguyên, Huế và Cần Thơ, nhóm tác giả ghi nhận tỷ lệ nhiễm HPV là 9,3%, trong đó ở Thái Nguyên chiếm 3,1%; ở Huế là 2,9% và ở Cần Thơ là 3,3% [14]. Tỷ lệ nhiễm HPV ở phụ nữ đã được nhận thấy có sự khác nhau giữa các khu vực và quốc gia, điều này được lý giải bởi nhiều yếu tố khác nhau: Cả về yếu tố chung tộc, di truyền, kinh tế xã hội, hành vi thói quen quan hệ tình dục. Bên cạnh đó, tỷ lệ nhiễm HPV và UTCTC khác nhau giữa các nước phát triển và kém phát triển hơn còn do sự khác nhau về chương trình tầm soát ung thư, tiêm chủng vắc xin HPV giữa các quốc gia.
Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng phát hiện được 14 týp HPV khác nhau với tổng cộng 72 týp được ghi nhận trên 54 phụ nữ có kết quả định lượng realtime PCR dương tính (Bảng 3). Hai týp thường gặp hơn ở phụ nữ đã lập gia đình trong mẫu là týp 16 và týp 52 với tỷ lệ định týp dương tính lần lượt là 16,2% và 23,0%
(Bảng 3). Kết quả này cũng tương đồng với tác giả Lâm Đức Tâm tại Cần Thơ, týp HPV-16 và HPV-52 chiếm tỷ lệ cao nhất (22,73%). Trong nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Vũ Quốc Huy (2012) tại Thừa Thiên Huế, tác giả phân lập được 9 týp bao gồm các týp HPV nguy cơ thấp: 6, 11 và týp khác. Các týp nguy cơ cao bao gồm: 16, 18, 33, 45, 52, và 58, trong đó týp 16 và 58 chiếm tỷ lệ cao nhất [12]. Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả các trường hợp được định týp đều là các týp nguy cơ cao bao gồm: 16; 18; 31; 33; 35; 39; 45; 51; 52; 56; 58; 59; 66 và 68. Đa số các trường hợp nhiễm 1týp chiếm 68,5%, 25,9% nhiễm đồng thời 2 týp khác nhau và 5,6% nhiễm đồng thời 3 týp khác nhau. Tỷ lệ đồng nhiễm nhiều týp khác nhau cũng được ghi nhận trong một số nghiên cứu trước đây như tại Thừa Thiên Huế đa số trường hợp chỉ nhiễm 1 týp HPV (66,7%), số nhiễm 2 týp là 11,1% và số nhiễm 3 týp chiếm 22,2%, theo tác giả Lê Trung Thọ nhiễm 1 týp HPV chiếm nhiều nhất (50,4%), số nhiễm 2 týp là 22,9% và số nhiễm ≥ 3 týp chiếm 26,7.
Tỷ lệ nhiễm Human Pappillon vi rút ở phụ nữ đã lập gia đình tại Nghệ An là 6,3% với khoảng tin cậy 95% là 4,9 - 7,6 % và không có khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa các vùng sinh thái của tỉnh Nghệ An. Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận 14 týp HPV-DNA khác nhau; 100% các týp đều thuộc nhóm nguy cơ cao và phổ biến nhất là các týp 16; 52; 18 và 58. Tỷ lệ nhiễm 1 týp là 68,5% và đồng nhiễm ít nhất 2 týp khác nhau chiếm trên 31,5%. Do đó, dự phòng bệnh lý ung thư cổ tử cung cần bắt đầu từ chương trình tầm soát nhiễm HPV ở phụ nữ và tiêm chủng vắc xin cho phụ nữ và trẻ em gái từ 9-26 tuổi được xem là một chiến lược tiếp cận phù hợp và hiệu quả.
Tăng Việt Hà, Võ Thị Thủy
Bệnh viện Đa khoa khu vực Tây Bắc tỉnh Nghệ An