Phát triển cây có múi cần tập trung vào công nghệ, quản lý dịch bệnh
Theo thống kê, hết năm 2020, Nghệ An có gần 10 nghìn ha cây c...
Theo thống kê, hết năm 2020, Nghệ An có gần 10 nghìn ha cây có múi, trong đó cây cam là 4.734 ha, diện tích cho sản phẩm 3.791 ha, sản lượng 59.320 tấn. Cây có múi, đặc biệt là nhiều vùng cam đang giúp nông dân phất lên làm giàu.
Vùng đồng bằng năm 2020 là 9.367 ha (chiếm 41,08% diện tích toàn tỉnh). Các loại cây ăn quả chủ yếu như: Cây có múi 2.757 ha (cam 798 ha, quýt 181 ha, chanh 1.187 ha, bưởi 589 ha); các loại cây ăn quả nhiệt đới và cận nhiệt đới: Xoài 568 ha, hồng xiêm 61 ha, chuối 3.733 ha, thanh long 127 ha, đu đủ 119 ha, dứa 1.145 ha, na 385 ha, hồng 212 ha, mít 502 ha, ổi 421 ha; các loại cây ăn quả nhiệt đới và cận nhiệt đới khác 287 ha; các loại cây ăn quả có hạt như: Táo, mận 301 ha, nhãn 379 ha, vải 376 ha,... Tổng sản lượng quả năm 2020 đạt 113.118 tấn, chiếm 43,39% sản lượng quả toàn tỉnh.
Vùng núi thấp diện tích năm 2020 là 11.419 ha (chiếm 50,08% diện tích toàn tỉnh). Các loại cây ăn quả chủ yếu như: Cây có múi 6.489 ha (cam 3.467 ha, quýt 1.335 ha, chanh 707 ha, bưởi 979 ha; các loại cây ăn quả nhiệt đới và cận nhiệt đới: Xoài 189 ha, hồng xiêm 30 ha, chuối 1.930 ha, thanh long 187 ha, đu đủ 61 ha, dứa 135 ha, na 72 ha, hồng 32 ha, mít 532 ha, ổi 625 ha, bơ 115 ha; các loại quả nhiệt đới và cận nhiệt đới khác 153 ha; các loại cây ăn quả có hạt như: Táo, mận 214 ha, nhãn 337 ha, vải 244 ha,...Tổng sản lượng quả năm 2020 đạt 128.958 tấn, chiếm 49,47% sản lượng quả toàn tỉnh.
Vùng núi cao diện năm 2020 là 2.015 ha (chiếm 8,84% diện tích toàn tỉnh). Các loại cây ăn quả chủ yếu như: Cây có múi 665 ha (cam 470 ha, quýt 9 ha, chanh 142 ha, bưởi 45 ha); các loại cây ăn quả nhiệt đới và cận nhiệt đới: Xoài 109 ha, chuối 409 ha, đu đủ 42 ha, dứa 94 ha, mít 47 ha, chanh leo 244 ha; các loại cây ăn quả có hạt như: Táo 15 ha, mận 50 ha, đào 90 ha, nhãn 109 ha, vải 117 ha,...Tổng sản lượng quả năm 2020 đạt 18.618 tấn, chiếm 7,14% sản lượng quả toàn tỉnh
Bưởi Diễn
Khẳng định dư địa phát triển còn rất dồi dào, tuy nhiên, TS Nguyễn Quốc Hùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả (Bộ NN-PTNT) cho rằng, trước mắt không nên mở rộng diện tích, mà ưu tiên đầu tư công nghệ, quản lý dịch bệnh....
Ngoại trừ một số giống có tính đặc thù khí hậu như cam Xã Đoài, các giống cam dòng Navel…, còn lại nhìn chung tính thích nghi của cây có múi khá rộng. Bưởi da xanh trước đây vốn chỉ trồng ở phía Nam hiện đã đưa ra trồng ở Cao Phong, Bắc Giang đạt năng suất, chất lượng khá tốt. Vì vậy, có thể nói dư địa phát triển cây cam nói riêng và cây có múi nói chung vẫn còn vô cùng lớn. Cây có múi đòi hỏi kỹ thuật SX rất cao, đặc biệt là sâu bệnh Một số địa phương có điều kiện hoàn toàn có thể đưa cây có múi như cam, bưởi, quýt… vào cơ cấu cây trồng, điển hình như các huyện Hiệp Hòa, Lục Nam, Lục Ngạn (Bắc Giang) bởi điều kiện thổ nhưỡng rất thích hợp. Lợi thế của cây cam là thời gian thu hoạch có thể kéo rất dài, khác với vải thiều chỉ thu hoạch tập trung, khả năng bảo quản, vận chuyển cam cũng thuận lợi hơn vải thiều rất nhiều. Vì vậy, Bắc Giang hoàn toàn có thể chuyển một số diện tích vải thiều kém hiệu quả sang cây có múi, trong đó có cam. Trước đây, Bắc Giang đã từng có vùng cam Bố Hạ (Yên Thế) rất nổi tiếng nhưng bây giờ không còn nữa. Ngoài ra, vùng Nghĩa Đàn - Quỳ Hợp (Nghệ An) hiện tiềm năng mở rộng diện tích cam vẫn còn lớn. Các huyện miền tây Thanh Hóa như Như Thanh, Như Xuân… có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng rất phù hợp với cây cam.
Mặc dù dư địa phát triển còn lớn, tuy nhiên, theo TS Nguyễn Quốc Hùng, chưa nên mở rộng diện tích cây có múi, mà chỉ nên tập trung thâm canh, cải tạo tăng năng suất, tăng giá trị kinh tế đối với các diện tích đã có. Điểm dễ nhìn thấy giữa các vùng trồng cam hiện nay là không đồng đều, có sự chênh lệch về thu nhập rất lớn, chứ không phải vùng nào cũng tốt như Cao Phong hay Quỳ Hợp. Nếu như Quỳ Hợp, Cao Phong và các vùng ở ĐSBCL hiện nay có trình độ thâm canh rất cao, năng suất cam đạt tới 40-50 tấn/ha, thu nhập người trồng cam hàng tỉ đồng mỗi năm thì một số vùng khác, điển hình như vùng cam sành Hà Giang hiện năng suất cam chỉ đạt trung bình 12 tấn/ha, nhiều diện tích thậm chí chỉ có 7-8 tấn/ha, đời sống người trồng cam chưa khá giả....
Vùng bưởi Phúc Trạch (Hà Tĩnh), Đoan Hùng (Phú Thọ) nếu thời gian qua không nỗ lực nghiên cứu khôi phục thì chắc đến nay đã bị xóa sổ. Vùng cam Bắc Quang (Hà Giang) trước đây có diện tích khoảng 1.500 ha, năng suất rất tốt nhưng bây giờ đang có nguy cơ giảm diện tích, năng suất ngày càng tụt mạnh, mà nguyên nhân chủ yếu do trình độ canh tác, đầu tư của nông dân rất hạn chế. Nếu như người trồng cam đường Canh ở Văn Giang (Hưng Yên) hiện nay biết ủ cả ốc, cá, đậu tương để thay thế phân hóa học, người trồng cam ở Cao Phong hay Quỳ Hợp có khả năng đầu tư, có kỹ thuật canh tác, phòng trừ sâu bệnh rất hoàn hảo, thì hầu hết vùng cam Hà Giang người dân gần như bỏ bê, trồng dày chi chít, không bón phân chuồng, không tỉa cành tạo tán, không tưới mà chỉ nhờ nước trời… Điều này cho thấy không phải nơi nào cũng làm giàu được từ cây có múi. Một số giống cam hiện nay có tính đặc thù thổ nhưỡng, khí hậu rất cao, không phải nơi nào cũng trồng được. Ví dụ cam Xã Đoài có thể trồng cho năng suất rất cao ở Cao Phong, Quỳ Hợp, nhưng đưa lên Hà Giang, do lượng mưa rất lớn nên lại không trồng được, mà chỉ trồng được cam sành, dù biết giá cam sành không thể cao bằng cam Xã Đoài. Việc quản lí và phòng trừ một số sâu bệnh đơn giản như vàng lá vi khuẩn, rệp, nhện, đốm đen… ở một số vùng cam có trình độ kỹ thuật cao như Hưng Yên, Cao Phong, Quỳ Hợp… hiện đã cơ bản tốt, tuy nhiên sâu bệnh vẫn đang là vấn đề lớn của cây có múi, đặc biệt là bệnh greening và sâu đục quả. Bệnh greening vẫn chưa có thuốc điều trị, nếu không có kỹ thuật quản lí tốt môi giới truyền bệnh thì sẽ rất nguy hiểm. Vựa cam sành Bố Hạ (Bắc Giang) trước đây có tiếng, nhưng đến nay đã bị xóa sổ chủ yếu do sâu bệnh. Một số cây có múi có đặc điểm sinh học khá đặc biệt, điển hình như vùng bưởi Phúc Trạch và Đoan Hùng vừa qua có nguy cơ bị xóa sổ do tỉ lệ đậu quả ngày càng giảm, năng suất rất thấp. Sau một thời gian dài nghiên cứu, Viện Nghiên cứu Rau quả đã phát hiện ra nguyên nhân của tình trạng này là hiện tượng “tự bất tương hợp”, nghĩa là nếu để bưởi tự thụ phấn đến giai đoạn thuần hóa vườn bưởi thì tỉ lệ đậu quả sẽ ngày càng thấp. Sau này, nhờ trồng xen các giống bưởi khác giống và thụ phấn chéo, tỉ lệ đậu quả đã tăng lên rõ rệt, vì vậy diện tích bưởi Phúc Trạch và Đoan Hùng đã khôi phục dần.
Cũng theo ông Hùng, về giống, bộ giống cam còn khá đơn điệu, mới chỉ có 3-4 giống mới. Viện Nghiên cứu Rau quả hiện có Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây có múi, mỗi năm cung cấp khoảng 2 triệu cây giống sạch bệnh cho các vùng, tuy nhiên vẫn còn tình trạng chất lượng giống chưa đạt chất lượng, nhiễm bệnh lưu hành trên thị trường. Trước đây, chương trình giống cây trồng của Bộ NN-PTNT từng xây dựng một số cơ sở SX giống cây có múi sạch bệnh gồm vườn ươm tại Nghĩa Đàn (Nghệ An) và một cơ sở SX giống ở Bắc Quang (Hà Giang). Tuy nhiên hiện tại, vườn ươm tại Nghĩa Đàn đã giải tán do bị thu hồi đất cho Cty sữa TH True milk, còn vườn ươm tại Hà Giang mặc dù đã xây dựng xong hạ tầng nhưng sau đó do không được đầu tư đúng mức nên hoạt động không hiệu quả, hiện đã giao cho Cty giống cây trồng Hà Giang quản lí. Đầu tư cho nghiên cứu SX giống cây có múi khá phức tạp và tốn kém, hiện chưa đáp ứng được yêu cầu./.
Tác giả bài viết: Xuân Anh