Cơ cấu tiêu dùng và sử dụng muối ăn (NaCl) trên thế giới gồm 60% cho sản xuất công nghiệp, 30% cho chế biến thực phẩm và ăn trực tiếp, 10% cho các tiêu dùng khác. Muối có mặt trong khoảng 14.000 loại sản phẩm công nghiệp và thực phẩm. Trong việc nấu ăn hàng ngày, muối ăn được sử dụng như là chất bảo quản cũng như là gia vị. Muối ăn mà ngày nay người ta mua về dùng không phải là clorua natri nguyên chất, thực tế đã phải qua tinh chế và bổ sung thêm một số thành phần vi lượng từ các công nghệ chế biến. Trong sinh hoạt hàng ngày, muối ăn được dùng làm chất điều vị, bảo quản thực phẩm. Gia súc ăn thêm muối ăn sẽ chóng lớn, ít bệnh tật, muối ăn còn được dùng trong việc chọn giống và trộn với các loại phân hữu cơ để bón cho lúa và hoa màu. Trong Y dược, muối dùng trong nghành dược ngoài việc chú trọng hàm lượng Natri Clorua (NaCl) các tạp chất không tan nằm trong giới hạn cho phép, thì hàm lượng tạp chất không tan được yêu cầu không có hoặc càng thấp càng tốt. Trong công nghiệp, nhất là công nghiệp hóa chất, muối được sử dụng nhiều, tiêu thụ muối nhiều gấp 10-20 lần so với lượng muối ăn dùng cho ăn uống trực tiếp thông qua chế biến thực phẩm ăn uống hàng ngày. Từ muối ăn có thể chế ra nhiều loại hóa chất như kẽm clorua dùng trong việc hàn kim loại, thủy ngân clorua dùng trong y dược, natri clorat và hypoclorat dùng làm thuốc hiện ảnh.
Hiện nay nước ta có trên 70 cơ sở chế biến muối nhưng chỉ có 15 dây chuyền chế biến muối tinh liên tục theo phương pháp nghiền rửa muối, trong đó có 11 dây chuyền do Saltechco thiết kế chế tạo và lắp đặt đồng bộ, 02 dây chuyền nhập khẩu đồng bộ của tây Ban Nha và 02 dây chuyền hỗn hợp máy Việt Nam và Trung Quốc. Sản phẩm của các dây chuyền này hầu hết là muối tinh và muối tinh sấy dùng cho ngành công nghiệp thực phẩm và ăn trực tiếp, đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu thị trường. Các muối chất lượng cao đặc biệt muối cho ngành dược đều nhập khẩu từ Thái Lan, Trung Quốc. Dù muối được sử dụng trong lĩnh vực nào, thì hàm lượng Natri Clorua (NaCl) cũng luôn được chú trọng. Vì vậy, độ tinh khiết của muối càng cao càng có giá trị. Việc dùng nước muối bão hòa NaCl sau khi xử lý hóa chất loại bỏ hầu hết các tạp chất sau đó đưa vào nồi cô đặc chân không để sản xuất muối tinh khiết được hầu hết các nước áp dụng, nhưng việc dùng công nghệ nghiền rửa để loại tạp chất nhằm nâng cao chất lượng đạt được tiêu chuẩn muối cho ngành dược ở nước ta còn mới mẻ đặc biệt việc dùng nước chạt riêng biệt để rửa cho mỗi công đoạn trong dây chuyền chế biến hiện nay trong nước chưa nghiên cứu thực hiện.
Trước thực trạng công nghệ và thiết bị của ngành muối hiện nay, năm 2016, Bộ Khoa học Công nghệ đã cho tuyển chọn giao cho nhóm nghiên cứu Công ty CP muối và thực phẩm Bình Định do KS. Phùng Duy Tiến đứng đầu thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: “Nghiên cứu công nghệ và thiết bị chế biến muối tinh, công suất 2,5 - 3 tấn/giờ dùng cho sản xuất dược phẩm và các ngành công nghiệp khác” thuộc dự án “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ và thiết bị sản xuất muối sạch, muối tinh và hình thành liên kết theo chuỗi giá trị giữa Công ty CP Muối và thực phẩm Bình Định với diêm dân tại Bình Định”.
Thông qua các nghiên cứu tổng quan về các công nghệ và thiết bị sản xuất muối tinh trên thế giới và đặc biệt khảo sát các công nghệ sản xuất và sản xuất muối tinh tại các tỉnh duyên hải của Việt Nam, đề tài đã giải quyết được các nội dung:
- Đã xây dựng quy trình công nghệ chế biến muối tinh dùng cho sản xuất dược phẩm và các nghành công nghiệp khác, quy trình và các công thức sản xuất ra các loại muối chăm sóc sức khỏe có chế phẩm chính từ muối tinh; bao gồm Bào chế và đăng ký được sản phẩm muối thông minh dành cho người cao huyết áp, nghiên cứu công thức bào chế sản phẩm muối ngâm chân và chế phẩm muối sữa spa.
- Đã thiết kế, chế tạo, lắp đặt vận hành dây chuyền chế chế biến muối tinh, năng suất 2,5-3 tấn/giờ, dùng cho sản xuất muối tinh dùng trong ngành dược và các ngành công nghiệp khác từ nguyên liệu muối đạt theo tiêu chuẩn TCCS 01 và TCCS 02. Dây chuyền đã được giám định công suất đạt yêu cầu như đã đăng ký bởi đơn vị Vinacontrol.
Dây chuyền sản xuất tạo ra được sản phẩm muối sau khi tinh chế đạt yêu cầu, đã được Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 2 kiểm định đạt các chỉ tiêu hóa lý như đã đăng ký trong đề tài. Quy trình sản xuất và toàn bộ dây chuyền thiết bị được tạo ra do tự nghiên cứu và hoàn toàn tự chế tạo từ các xưởng cơ khí trong nước nên có giá thành thấp hơn so với thiết bị ngoại nhập từ 30 - 50%.
Giá muối tinh từ dây chuyền sản xuất đã nâng giá trị giá bán muối tinh tăng 20% so với giá bán muối tinh thông thường. Với giá bán sản phẩm sản xuất đạt 100% công suất thiết kế, mỗi năm vận hành dây chuyền thiết bị sản xuất muối tinh sẽ tạo ra 10.982 tấn muối sản phẩm/năm. Sơ bộ hiệu quả kinh tế của dây chuyền thiết bị sản xuất muối tinh năng suất sẽ mang lại 7.312.207,782 đồng/năm.
Xây dựng nhà máy chế biến muối tinh khiết từ nguồn nguyên liệu sạch của địa phương đảm bảo sản phẩm đạt chất lượng phục vụ cho công nghiệp chế biến thực phẩm và hóa dược từng bước thay thế hàng nhập khẩu. Dây chuyền tinh chế muối có tại Bình Định sẽ giúp thúc đẩy phát triển các vùng nguyên liệu muối sạch của tỉnh tạo ra nhiều công ăn việc làm cho diêm dân dẫn đến tạo thu nhập ổn định, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động
Như vậy, kết quả đề tài giúp tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và làm chủ công nghệ cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu của công ty, tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu tiêu dùng của cộng đồng đối với thực phẩm sạch. Chủ động công nghệ sản xuất các thiết bị phục vụ sản xuất muối sạch kết tinh, từ đó giúp mở rộng vùng sản xuất muối sạch kết tinh. Hình thành và đạo tào đội ngũ cán bộ khoa học có kiến thức chuyên môn đảm bảo phục vụ cho ngành sản xuất muối nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung tại địa phương Bình Định. Thúc đẩy việc nghiên cứu, sáng kiến cải tiến phát triển các thiết bị, dụng cụ cung cấp cho ngành sản xuất muối nói riêng và ngành sản xuất thực phẩm nói chung nhằm mang lại hiệu quả thiết thực cho xã hội.
Xây dựng nhà máy chế biến muối tinh khiết từ nguồn nguyên liệu sạch của địa phương đảm bảo sản phẩm đạt chất lượng phục vụ cho công nghiệp chế biến thực phẩm và hóa dược từng bước thay thế hàng nhập khẩu. Dự án hoạt động sẽ là tiền đề hình thành liên kết giữa công ty và diêm dân địa phương trong mô hình phát triển chuỗi giá trị hàng hóa từ sản xuất đến tiêu thụ, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm muối tăng hơn so hiện nay.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 16357/2019) tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
P.T.T (NASATI)
Ý kiến bạn đọc